Sen búp dâng đời
Tác giả: Nguyễn Minh Tiến
Phần 1: Thay lời tựa
Sen búp dâng đời là tuyển tập soạn dịch dựa trên hai bản Hán văn nổi tiếng trong thiền môn, đều mang ý nghĩa khuyến khích, răn nhắc người tu tập. Bản thứ nhất là Khuyến phát Bồ-đề tâm văn (勸發菩提心文) của Đại sư Thật Hiền và bản thứ hai là Quy Sơn cảnh sách văn (溈山警策文) của Thiền sư Quy Sơn.
Đây có thể xem là những tuyệt tác trong văn chương Phật giáo bởi tính chất hàm súc với lời văn lưu loát mà gãy gọn, ý nghĩa thâm thúy mà dễ hiểu, lời lẽ hết sức thống thiết mà giản dị, tạo được nhiều ấn tượng mạnh mẽ, cảm động và sâu lắng trong lòng người. Vì thế, không phải vô cớ mà từ nhiều thế hệ trước đây, những người xuất gia hầu hết đều phải thuộc nằm lòng hai bản văn này bằng chữ Hán.
Trước đây chúng tôi đã từng có dịp giới thiệu bản Việt dịch Quy Sơn cảnh sách văn đến với độc giả, nhưng mãi đến nay mới tìm được nguyên bản Hán văn của Khuyến phát Bồ-đề tâm văn được khắc in chung trong An Sĩ toàn thư do Đại sư Ấn Quang giới thiệu. Hai bản văn này, một khuyên người phát tâm, một khuyên người sau khi phát tâm phải hết sức nỗ lực tu tập, cho nên có thể xem là một kết hợp hoàn hảo để trở thành sách gối đầu giường cho tất cả các vị mới xuất gia, những đóa sen búp xinh tươi đang trong tiến trình rèn luyện để ngày mai bừng nở, ngát hương giải thoát dâng lên cho đời.
Hai bậc thầy viết ra những bản văn này đều là những vị cao tăng đức độ. Đạo hạnh cao tột của các ngài là những tấm gương sáng cho hậu thế noi theo. Tuy sống cách nhau gần ngàn năm, nhưng những điều hai vị nói ra thảy đều tương hợp thiết tha, khiến cho kẻ đọc người nghe hai bản văn này đều cảm thấy phấn chấn nỗ lực trong tu tập và phải tự mình hổ thẹn vì những lúc thối tâm nản chí.
Thiền sư Quy Sơn (771-853) là bậc long tượng chốn thiền môn, Tổ sư khai sáng tông Quy Ngưỡng. Đại sư Thật Hiền (1685-1734) là Tổ thứ 9 của Liên Tông Tịnh độ, cũng là truyền nhân đời thứ tư của phái thiền Linh Phong thuộc tông Thiên Thai, được chân truyền từ Thiền sư Thiệu Đàm. Tuy cả hai đều là những bậc pháp khí, uyên thâm kinh điển, chứng đắc thâm sâu, nhưng các ngài lại hết lòng từ bi quan tâm đến những kẻ hậu học căn cơ thấp kém. Vì thế, ngài Quy Sơn tuy dạy người tham thiền khai ngộ, vẫn khuyến khích giáo học kiên trì. Ngài Thật Hiền tuy tự mình chứng ngộ, thấu triệt đến chỗ “nhất thiết giai không”, nhưng tự thân chuyên cần tu tập pháp môn Tịnh độ, khuyên bảo mọi người phải nương theo pháp niệm Phật để cầu thoát sinh tử. Tâm lượng từ bi và tấm lòng thương đời yêu người của các ngài quả thật là rộng lớn sâu xa, thấu suốt được căn cơ, năng lực của chúng sinh thời nay, nên mới có thể dùng phương tiện dạy dỗ đúng người đúng pháp. Trong hàng ngàn năm qua, kẻ tăng người tục được hưởng lợi ích từ sự giáo huấn của các ngài qua hai bản văn này, quả thật không thể nào nói hết.
Vì vậy, chúng tôi không ngại mình kiến thức còn thô thiển, cố gắng mang phần Việt dịch và chú giải của cả hai bản văn trên, soạn thành tập sách này, vừa thuận tiện cho những người tu học, vừa cũng có thể làm tập sách quý cho người yêu thích văn chương Phật giáo. Thông qua đây mới biết rằng, kinh sách đạo Phật không chỉ là những bản kinh văn uyên thâm khúc chiết, mà cũng có cả những bài văn hay cảm động lòng người.
Mong sao người đọc qua những bản văn này đều có thể cảm nhận được tâm từ bi vô lượng của thầy tổ đã thống thiết răn nhắc, từ đó mà tâm nguyện đã phát càng thêm sâu vững, đường tu đã tiến càng tiến xa hơn, sớm đạt đến chỗ tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.
Trân trọng,
Nguyễn Minh Tiến
Phần 2: Bài văn Khuyên phát tâm Bồ-đề
Lời dẫn
Kẻ phàm tăng ngu muội kém cỏi là Thật Hiền, nay khóc chảy máu mắt mà cúi lạy, đau xót có lời dâng lên đại chúng hiện tiền, cùng hết thảy thiện nam tín nữ. Kính mong quý vị mở lòng từ bi, có chút lưu tâm lắng nghe, xét kỹ.
Thường nghe rằng, cửa ngõ vào Chánh đạo, sự phát tâm quan trọng nhất; việc gấp trên đường tu, không gì hơn lập nguyện. Nguyện đã lập thành thì có thể cứu độ chúng sinh, tâm đã phát khởi thì quả Phật ắt sẽ thành tựu. Ví như không phát tâm rộng lớn, lập nguyện kiên cố, ắt là trải qua vô số kiếp vẫn còn nguyên trong chốn luân hồi. Cho dù có tu hành, hết thảy chỉ là uổng công khổ nhọc. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: “Kẻ tu các pháp lành mà quên mất tâm Bồ-đề, đó gọi là theo nghiệp của ma.”
[Phát tâm rồi] quên mất còn như thế, huống chi là chưa phát tâm? Cho nên biết rằng, muốn học theo Chánh pháp Như Lai, trước hết phải phát khởi đầy đủ tâm nguyện Bồ Tát, không thể chậm trễ.
Khuynh hướng phát tâm
Nhưng tâm nguyện có khác biệt, tướng trạng rất nhiều, nếu không chỉ rõ, biết theo khuynh hướng nào? Nay xin vì đại chúng mà nói qua sơ lược, sự phát tâm có tám khuynh hướng khác biệt là: tà vạy, chính đáng, chân thật, dối trá, rộng lớn, nhỏ hẹp, thiên lệch và viên mãn.
Phát tâm như thế nào gọi là tà vạy, thế nào là chính đáng? Thế nào là chân thật, thế nào là dối trá? Thế nào là rộng lớn, thế nào là nhỏ hẹp? Thế nào là thiên lệch, thế nào là viên mãn?
Có những kẻ tu hành không cứu xét tự tâm, chỉ biết hướng theo ngoại cảnh, mong cầu lợi dưỡng hoặc tham muốn danh tiếng, chạy theo khoái lạc nhục dục hiện tại hoặc mong cầu quả báo tương lai. Phát tâm như thế gọi là tà vạy.
Không cầu lợi dưỡng, danh tiếng, cũng không tham dục lạc, quả báo, chỉ vì muốn thoát ly sinh tử, thành tựu Bồ-đề. Phát tâm như thế gọi là chính đáng.
Mỗi một niệm đều ngưỡng cầu Phật đạo, mỗi một ý tưởng trong tâm đều thương xót giáo hóa chúng sinh. Dù nghe rằng Phật đạo thăm thẳm dài lâu, cũng không thối tâm khiếp sợ; nhìn thấy chúng sinh khó hóa độ, cũng không sinh lòng chán nản mỏi mệt. Như trèo núi cao chót vót, quyết lên tận đỉnh; như leo tháp lớn sừng sững, quyết đến tột cùng. Phát tâm như thế gọi là chân thật.
Tạo tội rồi không sám hối, mắc lỗi không chịu dứt trừ, bên ngoài ra dáng trong sạch, trong lòng đầy dẫy nhớp nhơ. Trước khởi tâm chuyên cần, sau hóa ra lười nhác. Tuy có chút lòng tốt, phần nhiều lại bị danh lợi xen vào. Dù có tu pháp lành, lại để cho tội lỗi nghiệp xấu làm ô nhiễm. Phát tâm như thế gọi là dối trá.
Pháp giới chúng sinh chưa cùng tận thì nguyện vẫn còn, đạo Bồ-đề chưa thành tựu thì nguyện chưa trọn. Phát tâm như thế gọi là lớn lao.
Quán xét ba cõi như tù ngục, vòng sinh tử như kẻ oán thù, chỉ muốn mau mau tự độ, không dám nghĩ đến việc cứu độ muôn người. Phát tâm như thế gọi là nhỏ hẹp.
Nếu ngoài tâm này thấy có chúng sinh phải nguyện cứu độ, thấy có Phật đạo phải nguyện tựu thành, công khó tu tập không quên, tri kiến tích tụ chẳng bỏ. Phát tâm như thế gọi là thiên lệch.
Nếu biết tự tánh này là chúng sinh nên nguyện độ thoát; tự tánh này là Phật đạo nên nguyện tựu thành. Không thấy có bất kỳ pháp nào lìa khỏi tâm này mà tự hiện hữu. Dùng tâm rỗng rang như hư không để phát nguyện lớn như hư không, tu tập công hạnh như hư không, chứng đắc quả vị như hư không, nhưng rốt cùng cũng không có tướng trạng hư không có thể nắm bắt. Phát tâm như thế gọi là viên mãn.
Biết rõ được tám sự khác biệt như trên rồi thì biết phán xét; biết phán xét thì biết chọn lựa lấy bỏ; biết chọn lựa lấy bỏ thì có thể phát tâm theo cách đúng đắn.
Thế nào là phán xét? Đó là nói việc tự phán xét xem chỗ phát tâm của mình rơi vào khuynh hướng nào trong tám điều nêu trên. Là tà vạy hay chính đáng? Là chân thật hay dối trá? Là lớn lao hay nhỏ hẹp? Là thiên lệch hay viên mãn?
Thế nào là chọn lựa lấy bỏ? Đó là nói phải bỏ đi những khuynh hướng tà vạy, dối trá, nhỏ hẹp, thiên lệch, mà chọn lấy những khuynh hướng chính đáng, chân thật, lớn lao, viên mãn.
Phát tâm được như thế, mới có thể gọi là phát tâm Bồ-đề một cách chân chánh.
Nhân duyên phát tâm
Tâm Bồ-đề đứng đầu tất cả pháp lành, phải có nhân duyên mới có thể phát khởi. Nay sẽ nói về nhân duyên, sơ lược có mười loại.
Những gì là mười nhân duyên phát tâm Bồ-đề?
– Thứ nhất, vì nghĩ đến ơn Phật sâu nặng nên phát tâm;
– Thứ hai, vì nghĩ đến công ơn cha mẹ nên phát tâm;
– Thứ ba, vì nghĩ đến ơn thầy dạy dỗ nên phát tâm;
– Thứ tư, vì nghĩ đến ơn thí chủ cúng dường nên phát tâm;
– Thứ năm, vì nghĩ đến ơn chúng sinh nên phát tâm;
– Thứ sáu, vì nghĩ đến nỗi khổ sinh tử nên phát tâm;
– Thứ bảy, vì tôn trọng tự tánh linh giác nên phát tâm;
– Thứ tám, vì sám hối nghiệp chướng nên phát tâm;
– Thứ chín, vì cầu sinh Tịnh độ nên phát tâm;
– Thứ mười, vì khiến cho Chánh pháp được trụ thế lâu dài nên phát tâm.
Thế nào là nghĩ đến ơn Phật sâu nặng?
Đó là nói việc đức Như Lai Thích-ca của chúng ta từ thuở mới vừa phát tâm, vì chúng ta mà hành đạo Bồ Tát, trải qua vô số kiếp chịu mọi khổ não. Khi ta tạo nghiệp xấu ác thì Phật khởi tâm thương xót, dùng phương tiện giáo hóa, nhưng ta lại ngu si không chịu tin nhận. Ta phải đọa vào địa ngục, Phật lại đau lòng thương xót, muốn thay ta chịu khổ, nhưng vì ta tạo nghiệp nặng nề nên không thể cứu vớt. Ta sinh làm người, Phật dùng phương tiện khiến ta biết gieo trồng căn lành. Đời này sang đời khác, tâm Phật vẫn luôn hiện hữu cùng ta, chưa từng tạm rời. Thuở Phật vừa xuất thế, ta hãy còn chìm sâu trong biển nghiệp, nay ta được làm người thì Phật đã nhập diệt. Ta do tội gì phải sinh thời mạt pháp không có Phật? Ta nhờ phúc gì được dự hàng xuất gia? Vì nghiệp chướng gì không được nhìn thấy kim thân Phật? Do may mắn gì mà tự mình được chiêm bái xá-lợi Phật?
Lại suy xét rằng, ví như đời trước không gieo trồng căn lành, nay làm sao được nghe pháp Phật? Nếu không được nghe pháp Phật, làm sao biết mình thường chịu ơn Phật? Ân đức như thế, núi cao gò lớn cũng chẳng sánh bằng. Nếu tự mình không phát tâm rộng lớn, hành đạo Bồ Tát, xây dựng phát triển Phật pháp, cứu giúp hóa độ chúng sinh, thì cho dù có tan xương nát thịt cũng không thể báo đền.
Đó là nhân duyên thứ nhất để phát tâm Bồ-đề.
Thế nào là nghĩ đến ơn cha mẹ?
Mỗi khi nghĩ đến cha mẹ thì buồn thương khôn nguôi, bởi sinh ta ra mà phải chịu khổ nhọc trăm bề. Mười tháng mang thai, ba năm bú mớm; đêm bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn, ngày đắng cay mẹ nuốt, ngon ngọt phần con, nhờ vậy nay ta mới được thành người. Chỉ mong ta kế tục nghiệp nhà, nối đường thờ tự. Nay ta chọn đường xuất gia, lạm xưng đệ tử Phật, hổ thẹn nhận danh sa-môn. Món ngon ngọt chẳng dâng cha mẹ, ngày kỵ giỗ không cúng tổ tiên. Cha mẹ còn sống đã không chu toàn nuôi dưỡng, chết đi không dẫn dắt được theo đường lành. Xét việc đời là mất mát lớn lao, xét việc đạo còn chưa thật hữu ích. Ví như đôi đường đều thất bại thì tội lỗi nặng nề thật khó tránh.
Lại suy xét rằng, chỉ có một cách duy nhất là đời đời kiếp kiếp thường tu hành Phật đạo, rộng độ chúng sinh mười phương ba đời. Được như thế thì không chỉ cha mẹ trong một đời, mà cả cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp cũng đều được cứu độ; không chỉ riêng cha mẹ của một người, mà cha mẹ của tất cả mọi người cũng đều được siêu thoát.
Đó là nhân duyên thứ hai để phát tâm Bồ-đề.
Thế nào là nghĩ đến ơn thầy?
Cha mẹ tuy có thể sinh ta ra và nuôi dưỡng thân thể, nhưng nếu không có các bậc thầy dạy dỗ ở đời, hẳn ta không biết đến lễ nghĩa; nếu không có các bậc thầy dạy dỗ trong đạo, hẳn ta không hiểu được pháp Phật.
Không biết lễ nghĩa thì giống như súc vật, không hiểu pháp Phật thì khác chi người thế tục? Nay ta biết được đôi điều lễ nghĩa, hiểu được sơ lược về pháp Phật, trên mình được khoác cà-sa, thân tâm thấm nhuần giới hạnh, được như thế đều nhờ ơn thầy dạy dỗ.
Nếu phát tâm cầu quả vị nhỏ nhoi, chỉ có thể lợi ích riêng mình. Nay chọn theo Đại thừa, nguyện lớn lao lợi khắp muôn người, thì các bậc thầy dạy, dù ở đời hay trong đạo cũng đều sẽ được phần lợi ích.
Đó là nhân duyên thứ ba để phát tâm Bồ-đề.
Thế nào là nghĩ đến ơn thí chủ cúng dường?
Đó là nói việc chúng ta hôm nay, mọi thứ cần dùng hằng ngày đều không phải tự sức mình có được. Cháo cơm ngày hai bữa, y phục đủ bốn mùa, khi bệnh tật cần đến, lúc sinh hoạt thường ngày, hết thảy mọi chi phí đều có được từ công sức của người khác, mang đến cho ta tiêu dùng.
Người khác phải đem hết sức lực tự thân cày cấy, vẫn chưa kiếm đủ miếng ăn; còn ta ngồi không được ăn, vẫn chưa vừa ý. Người khác thì dệt dệt đan đan, vẫn chưa hết khó khăn thiếu thốn; còn ta ngồi không mà y phục có thừa, chẳng biết quý tiếc. Người khác thì nhà tranh vách lá, rối rắm suốt đời; còn ta thì nhà to sân rộng, nhàn tĩnh quanh năm.
Người khác cực nhọc để ta được an nhàn, có thể an lòng được sao? Lấy nguồn lợi của người khác để trau chuốt thân mình, như thế có hợp lý chăng?
Cho nên, nếu tự thân mình không thể vận dụng đủ bi lẫn trí, không tự trang nghiêm cả phúc lẫn tuệ, khiến cho tất cả đàn-na tín thí đều được nhờ ơn, hết thảy chúng sinh đều được lợi ích, thì cho dù hạt gạo sợi tơ, nhỏ nhặt đến thế cũng phải đền trả đủ, mà quả báo xấu ác cũng khó lòng tránh khỏi.
Đó là nhân duyên thứ tư để phát tâm Bồ-đề.
Thế nào là nghĩ đến ơn chúng sinh?
Đó là nói việc ta và chúng sinh từ vô số kiếp đến nay, đời này kiếp nọ vẫn thường thay đổi làm cha mẹ của nhau, nên có ơn với nhau. Nay tuy sang đời khác thì mê mờ hôn ám, chẳng còn biết nhau, nhưng theo lý mà suy, thì lẽ nào có ơn lại không lo báo đáp?
Ngày nay tuy thấy những con vật mang lông đội sừng, sao biết được trước đây ta chẳng từng làm con của chúng? Ngày nay tuy thấy những loài côn trùng nhỏ nhít, sao biết được trước đây chẳng từng là cha mẹ của ta? Thường thấy trẻ thơ, nếu phải xa cách cha mẹ thì lớn lên không nhớ dung mạo, huống chi là cha mẹ trong đời trước, nay tất nhiên không thể nhớ được. Ví như cha mẹ đời trước giờ đang gào khóc dưới địa ngục, lăn lộn trong cảnh giới ngạ quỷ, khổ sở đớn đau ai biết được? Đói khát thiếu thốn ai bảo cùng ta? Dù ta không thấy nghe hay biết, tất nhiên họ vẫn đang mong cầu có người cứu giúp. Chỉ Kinh văn mới có thể kể rõ việc này, chỉ đức Phật mới có thể dạy ta điều ấy, còn những kẻ tà kiến làm sao biết được?
Cho nên, Bồ Tát quán chiếu nơi trùng kiến, thấy tất cả đều là cha mẹ trong quá khứ, đều là chư Phật trong tương lai, thường nghĩ việc làm lợi ích, báo đáp ân đức.
Đó là nhân duyên thứ năm để phát tâm Bồ-đề.
Thế nào là nghĩ đến nỗi khổ sinh tử?
Đó là nói ta cùng với hết thảy chúng sinh, từ vô số kiếp đến nay thường ở trong sinh tử, chưa từng được giải thoát. Khi cõi nhân gian, lúc miền thiên thượng, khi ở cõi này, lúc sang phương khác, sống chết vạn mối, thăng trầm thoáng chốc. Vừa sinh cõi trời thoắt đã làm người; rồi thoắt lại đã sa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Cửa địa ngục sớm ra tối vào, hang sắt lạnh tạm rời lại đến. Lên núi đao toàn thân chẳng còn một chút da, leo cây kiếm khắp người chịu cắt xẻo. Hòn sắt nóng chẳng trừ cơn đói, nuốt vào rồi ruột gan chín bấy. Nước đồng sôi không nguôi cơn khát, vừa uống xong xương thịt nát nhừ. Cưa sắc lẻm cưa lìa thân thể, vừa đứt ra đã dính lại liền; kịp khi gió thổi qua, đã chết rồi liền sống lại ngay. Lửa dữ đầy thành, vang tiếng kêu gào thảm thiết; vạc lớn nấu đun, chỉ nghe âm thống khổ bên tai. Băng giá vừa ngưng, thân xanh mét như sen xanh bó nhụy; máu thịt rã rời, thể bầm đỏ như ngó sen hồng dập nát. Sống chết trong một đêm, địa ngục trải qua vạn lượt; đau đớn thống khổ mỗi ngày, so với nhân gian dài hơn trăm tuổi. Đã bao lần khiến ngục tốt phải ra sức hành hình mệt nhọc, mà nào ai tin lời Diêm chúa răn đe? Lúc thọ hình mới biết là khổ, tuy hối hận làm sao quay lại? Nhưng thoát ra rồi quên sạch sành sanh, bao nghiệp ác vẫn làm như cũ!
Dùng roi quất lừa chảy máu, ai biết mình đang đánh mẹ? Dắt lợn vào lò mổ, nào hay ta sắp giết cha? Ăn thịt con không biết, Văn vương xưa còn như thế. Nhai nuốt cha mẹ chẳng hay, muôn loài đều vậy cả. Ngày trước cùng ân ái, nay oán thù nhau; xưa vốn là thù địch, nay thành cốt nhục một nhà. Trước là mẹ nay lại làm cha, trước là cha nay lại làm chồng. Nếu nhớ biết được chuyện đời trước, ắt phải thấy xấu hổ, nhục nhã. Người có thiên nhãn nhìn thấu tất cả, ắt phải thấy nực cười thương xót.
Phẩn uế tụ thành một bọc, mười tháng trong ấy khó qua; máu mủ nhơ nhớp một đường, nhất thời chui xuống đáng thương! Ấu thơ chưa rõ biết, đó đây đều không phân biệt; lớn lên nhận hiểu rồi, tức thời khởi sinh tham dục. Không bao lâu thì bệnh khổ, già nua tìm đến; chẳng mấy chốc vô thường đã gọi. [Phút lìa đời] gió lửa hỗn độn, vây quanh thần thức rối loạn; tinh huyết cạn kiệt, bên ngoài da thịt dần khô. Mỗi lỗ chân lông đều như kim đâm thấu thịt; mắt mũi miệng thảy đều như dao cắt. Con rùa mang nấu chín, thịt lôi ra khỏi mai còn dễ, so với thần thức lâm chung thoát xác, khó hơn bội phần.
Tâm này không có chủ thể thường tồn, như kẻ đi buôn khắp chốn đều làm khách lạ. Thân này không có hình thể cố định, chỉ như nhà ở thường dời chuyển đó đây. Thân này biết bao lần qua lại giữa luân hồi, [tính đếm ra thì] số hạt bụi cõi đại thiên cũng không so được. Mỗi mỗi biệt ly rơi lệ, [gom hết lại thì] sóng nước bốn biển chẳng nhiều bằng. Xương cốt bao đời tích lũy, dẫu núi cao còn chưa sánh kịp. Thân xác từng bỏ trong sáu nẻo, dàn trải ra tràn khắp cõi đất. Ví như không có lời Phật dạy, những điều như vậy ai thấy ai nghe? Khi chưa đọc qua Kinh điển, lý lẽ như thế làm sao rõ biết?
Nếu cứ tham luyến như xưa, si mê không khác trước, chỉ sợ muôn kiếp ngàn đời, một lần sai trăm lần sai tiếp. Thân người khó được dễ mất, tuổi đời trôi nhanh không thể níu kéo. Rồi đường trước mịt mờ, một lần biệt ly là thăm thẳm. Nghiệp báo xấu ác trong ba đường dữ, tự làm tự chịu. Đau đớn không sao nói hết, biết ai thay mình nhận lãnh? Nói đến đây, sao có thể không rùng mình run sợ?
Vì thế nên phải dứt dòng sinh tử, thoát biển ái dục, cứu mình cứu người, cùng lên bờ giác. Công phu thành tựu trong muôn kiếp lâu xa, đều tùy thuộc vào nỗ lực quyết định một lần này.
Đó là nhân duyên thứ sáu để phát tâm Bồ-đề.
Thế nào là tôn trọng tự tánh linh giác?
Đó là nói việc tâm thức này của ta hôm nay, so với tâm thức của đức Thích-ca Như Lai quả thật không hai, không khác. Vì sao đức Thế Tôn từ vô lượng kiếp trước đã sớm thành Chánh giác, còn ta thì đến nay vẫn hôn mê điên đảo, vẫn là phàm phu? Đức Thế Tôn lại có đủ vô lượng thần thông, trí tuệ, công đức trang nghiêm, còn ta thì chỉ thấy đầy dẫy vô số phiền não, nghiệp lực dắt dẫn, sinh tử trói buộc? Cùng một tâm tánh mà mê ngộ cách nhau như trời vực, tĩnh tâm suy xét, lẽ nào lại không đáng hổ thẹn? Thật chẳng khác gì hạt châu vô giá nằm trong bùn nhơ, bị xem như ngói sỏi không ai quý trọng.
Thế nên phải dùng đến vô số pháp lành để đối trị phiền não, dày công tu tập giới hạnh thì tánh đức mới hiển lộ, như hạt châu kia được rửa sạch mài bóng, mang treo lên tòa cao rực rỡ tỏa chiếu, soi sáng khắp nơi. Như thế mới có thể gọi là không bội ơn giáo hóa của Phật, không uổng phụ tánh linh giác của chính mình.
Đó là nhân duyên thứ bảy để phát tâm Bồ-đề.
Thế nào là sám hối nghiệp chướng?
Trong kinh dạy rằng, phạm một trong các tội đột-cát-la phải đọa vào địa ngục, thời gian lâu bằng 500 năm ở cõi trời Tứ thiên vương. Đột-cát-la là tội nhẹ mà còn chịu nghiệp báo như vậy, huống chi các tội nặng, nghiệp báo quả thật khó nói hết!
Chúng ta ngày nay trong sinh hoạt thường ngày, mỗi hành vi, động tác thường phạm giới hạnh; mỗi miếng cơm, ngụm nước luôn trái luật nghi. Mỗi một ngày qua đã phạm vô số tội, huống chi trong suốt một đời, trải qua nhiều kiếp, tội lỗi sinh khởi chắc chắn là không thể nói hết!
Chỉ xét riêng theo Năm giới mà nói, mười người đã chín kẻ phạm, nhưng người bày tỏ phát lộ thì ít, kẻ che giấu lại nhiều. Năm giới chỉ là giới của người cư sĩ mà còn chưa giữ trọn, huống chi các giới sa-di, tỳ-kheo, Bồ Tát giới, hẳn sự thiếu sót đã quá rõ không cần phải nói. Có ai hỏi đến liền xưng danh tỳ-kheo, nhưng xét thực chất lại chưa trọn đức hạnh của người cư sĩ, chẳng đáng hổ thẹn lắm sao?
Nên biết rằng, giới luật do Phật chế định, ví như không thọ thì thôi, một khi đã thọ trì thì không được hủy phạm, một khi đã hủy phạm thì rốt cùng phải chịu đọa lạc. Nếu không sớm khởi tâm thương mình thương người, đau xót cho người, đau xót cho mình, thân khẩu cùng thống thiết, miệng niệm lệ rơi đều chân thành, khắp vì tất cả chúng sinh, bi ai cầu xin sám hối, thì chắc chắn trong ngàn đời muôn kiếp, khó tránh được quả báo xấu ác.
Đó là nhân duyên thứ tám để phát tâm Bồ-đề.
Thế nào là cầu sinh Tịnh độ?
Đó là nói việc nơi thế giới Ta-bà này, tu hành tăng tiến rất khó khăn; được vãng sinh về Tây phương Cực Lạc, thành tựu quả Phật cũng dễ dàng. Vì dễ dàng nên một đời có thể xong việc, bởi khó khăn nên nhiều kiếp vẫn chưa thành. Thế nên, các bậc hiền thánh xưa nay, ai ai cũng hướng về Cực Lạc; ngàn kinh muôn luận, đâu đâu cũng chỉ quy Tịnh độ.
Trong đời mạt pháp, không một pháp môn nào vượt hơn Tịnh độ. Tuy nhiên, trong kinh dạy rằng, căn lành ít không thể vãng sinh, phúc đức nhiều mới được thành tựu. Muốn nhiều phúc đức, chẳng gì hơn niệm danh hiệu Phật; muốn thừa căn lành, không chi bằng phát tâm rộng lớn. Vì thế, niệm Thánh hiệu dù trong chốc lát, cũng hơn người bố thí trăm năm; một khi vừa phát tâm Bồ-đề, đã vượt qua sự tu hành nhiều kiếp.
Niệm Phật vốn mong thành Phật, nếu chẳng phát tâm rộng lớn thì niệm để làm gì? Phát tâm là để tu hành, nếu không sinh về Tịnh độ thì dù phát tâm rồi cũng sẽ thối chuyển. Cho nên, ruộng tâm địa gieo hạt giống Bồ-đề, dùng lưỡi cày niệm Phật, thì đạo quả tự nhiên tăng trưởng. Nương con thuyền đại nguyện, vào biển lớn Tịnh độ, cõi Tây phương quyết định được vãng sinh.
Đó là nhân duyên thứ chín để phát tâm Bồ-đề.
Thế nào là khiến cho Chánh pháp được trụ thế lâu dài?
Đó là nói việc đức Thế Tôn từ vô số kiếp đến nay, vì chúng ta mà tu đạo Bồ-đề, việc khó làm cũng làm được, việc khó nhẫn cũng nhẫn được, cho đến khi nhân quả viên mãn, thành tựu quả Phật.
Sau khi thành Phật, hóa độ chúng sinh trọn khắp, nhân duyên đã dứt mới nhập Niết-bàn. Cho đến các giai đoạn chánh pháp, tượng pháp đều qua, nay chỉ còn là thời mạt pháp. Giáo pháp không người tu tập, tà chánh chẳng thể phân, đúng sai không rõ biết; người người tranh đua chạy theo nhân ngã, thảy thảy mưu lợi cầu danh. Nhìn khắp thiên hạ mênh mông đều là như vậy, chẳng còn ai biết Phật là người nào, Pháp có nghĩa chi, Tăng là danh xưng gì? Suy tàn cho đến mức ấy, nói ra càng không nỡ, mỗi khi nghĩ đến bất giác phải rơi lệ.
Chúng ta là Phật tử mà không thể báo đền ơn Phật, tự thân không làm lợi mình, đối với bên ngoài chẳng làm lợi người, sống trên đời đã là vô ích, chết đi cũng chẳng lợi lạc mai sau, trời tuy cao không sao che chở, đất tuy dày chẳng thể đỡ nâng. Như vậy, kẻ mang tội lỗi nặng nề nhất, chẳng phải ta thì là ai?
Do đó nên trong lòng đau đớn không sao chịu nổi, chẳng nghĩ được cách nào cho vẹn toàn. Hốt nhiên liền quên đi sự kém cỏi của mình, khởi phát tâm Bồ-đề rộng lớn. Tuy hiện nay không thể vãn hồi đời suy mạt, nhưng quyết sẽ lo tính việc hộ trì Chánh pháp tương lai. Vì thế mới cùng các vị thiện hữu đến nơi đạo tràng, soạn thành sám pháp, lập pháp hội này, phát khởi 48 lời nguyện lớn, mỗi nguyện đều cứu độ chúng sinh. Mong sao luôn giữ tâm sâu vững trong trăm ngàn kiếp, tâm nào cũng đều là tâm Phật.
Kể từ hôm nay cho đến tương lai không cùng tận, hết một đời này nguyện sinh về Cực Lạc, tiến tu lên hàng cửu phẩm, quay lại cõi Ta-bà, làm cho mặt trời Phật đạo rực rỡ huy hoàng như trước, Phật pháp rộng mở khắp thế gian, chư Tăng như biển lớn thanh tịnh trong toàn cõi, người người được hóa độ ngay tại Ta-bà, đời thịnh đức nhờ đó tăng thêm, Chánh pháp trụ dài lâu cõi thế; tâm nguyện hết sức chân thành, tha thiết như vậy.
Đó là nhân duyên thứ mười để phát tâm Bồ-đề.
Phần 3: Khuyên phát tâm Bồ-đề
Mười nhân duyên như trên đều đã biết, tám khuynh hướng phát tâm cũng hiểu rõ ràng, như vậy thì hướng đi đã có, điểm phát khởi đã định. Thêm vào đó ta lại được thân người, sống nơi văn hiến, sáu căn bình thường, thân thể khỏe mạnh an ổn, có đủ tín tâm, thật may mắn thay đường tu không có gì chướng ngại.
Huống chi ngày nay chúng ta lại được xuất gia, được thọ Cụ túc giới, được gặp đạo tràng, được nghe Phật pháp, chiêm ngưỡng xá-lợi Phật, lại tu tập sám pháp, gặp được bạn lành, đầy đủ nhân duyên thù thắng. Nếu hôm nay đây không phát tâm Bồ-đề, thì còn đợi ngày nào?
Chỉ mong đại chúng thương đến sự chân thành dẫu là ngu muội, xót cho chí nguyện khó nhọc kiên trì của tôi, xin hãy cùng nhau phát tâm, lập nguyện Bồ-đề. Người chưa phát tâm, hôm nay hãy phát tâm; đã phát tâm rồi xin hãy tăng trưởng; đã tăng trưởng rồi, xin hãy tiếp tục đừng gián đoạn.
Đừng sợ khó khăn mà thối thất, đừng thấy dễ dãi mà xem thường không cẩn trọng; đừng quá nôn nóng mà không giữ được dài lâu, đừng lười nhác buông thả mà thiếu sự dũng mãnh; đừng yếu hèn mất đi sự phấn chấn, đừng lần lữa do dự mà đợi chờ không dứt khoát; đừng vì tự thấy mình ngu si mà buông xuôi không chú ý, đừng vì căn tánh chậm lụt mà nghĩ mình không thể dự phần.
Ví như việc trồng cây, lâu ngày thì rễ cạn dần ăn sâu; hoặc như mài dao, mài lâu thì lưỡi cùn thành sắc bén. Lẽ nào vì thấy rễ cạn mà không trồng, để cây phải chết khô; vì thấy lưỡi cùn mà không mài, để dao thành vô dụng?
Hơn nữa, nếu cho rằng tu hành là khổ nhọc, ấy thật chẳng biết rằng, lười nhác buông thả sẽ còn khổ hơn. Tu hành thì khổ nhọc tạm thời, nhưng được an vui mãi mãi; lười nhác thì an ổn tạm bợ một đời, nhưng phải chịu khổ đau nhiều kiếp. Huống chi, nếu nhờ đến con thuyền Tịnh độ thì đâu phải lo gì thối chuyển? Được pháp vô sinh làm sức nhẫn chịu, thì đâu ngại gian nan? Nên biết rằng tội nhân trong địa ngục mà còn có kẻ phát tâm Bồ-đề từ kiếp trước, huống chi là Phật tử trong cõi người lại không lập đại nguyện đời này?
Do hôn ám si mê từ vô thủy, nên việc ngày trước đã không thể cản ngăn; ngày nay được tỉnh ngộ, chuyện tương lai có thể sửa đổi. Kẻ mê chưa ngộ vốn đã đáng thương, nhưng người biết mà không làm lại càng đớn đau đáng tiếc hơn nữa. Nếu biết sợ nỗi khổ địa ngục, thì tự nhiên khởi tâm tinh tấn. Luôn nhớ đến vô thường nhanh chóng, thì không dám lười nhác buông thả. Lại phải dùng giới pháp của Phật làm đòn roi nhắc nhở thôi thúc; nhờ bạn lành cùng nâng đỡ, dắt dẫn nhau. [Đã phát tâm rồi], dù khi nguy cấp gấp rút cũng chẳng lìa, dẫu suốt đời trọn kiếp vẫn nương theo không bỏ, như vậy thì không còn lo gì sự thối thất.
Đừng cho một niệm tưởng là nhỏ nhoi [mà khinh suất dể duôi], đừng nghĩ việc phát nguyện chỉ là [nói suông nên] hư dối không hữu ích. Tâm chân thành thì sự việc đúng thật, nguyện lớn rộng thì chỗ thực hành sâu. Hư không chưa phải lớn, vì tâm này mới là rộng lớn; kim cương chưa phải bền chắc, vì nguyện lực còn bền chắc không gì hơn.
Nếu đại chúng có thể thật lòng không gạt bỏ những lời trên, thì quyến thuộc Bồ-đề từ đây nối kết, thệ ước đồng tâm niệm Phật từ nay bền chặt. Đã phát nguyện cùng sinh về Tịnh độ, cùng gặp Phật Di-đà, cùng giáo hóa chúng sinh, cùng thành Chánh giác, thì biết đâu trong tương lai ba mươi hai tướng tốt, trăm phúc tướng trang nghiêm, lại chẳng bắt đầu ngay từ sự phát tâm lập nguyện của hôm nay? Nguyện cùng đại chúng nỗ lực cố gắng. Điều tốt đẹp ấy, thật kỳ vọng lắm thay!
Phần 4: Những điều cần biết khi đọc văn này
Ý nghĩa phát tâm Bồ-đề
Bồ-đề, dịch âm từ Phạn ngữ bodhi, có nghĩa là tỉnh giác, giác ngộ, chuyển mê khai ngộ, vượt thoát sinh tử, rốt ráo thành tựu quả Phật. Bồ-đề được hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là giác ngộ. Giác ngộ có nhiều tầng bậc, từ đơn giản nhất như khi ta hiểu ra được một câu kinh, bài kệ và chuyển đổi được một điều sai lầm, bất thiện nào đó nơi chính mình, cho đến như những hành giả đạt được thánh quả trên đường tu tập, đều là các tầng bậc khác nhau của giác ngộ.
Giác ngộ gắn liền với giải thoát. Khi tiến lên được một tầng bậc giác ngộ, người tu tập nhất định được giải thoát một phần trói buộc, khổ đau tương ứng. Tầng bậc giác ngộ càng cao thì sự giải thoát càng nhiều hơn, người tu tập được trải nghiệm sự tự do tự tại nhiều hơn trong đời sống. Do đó, giác ngộ viên mãn hay thành tựu quả Phật cũng đồng nghĩa với việc giải thoát rốt ráo, chấm dứt mọi khổ đau.
Theo giảng giải trong kinh luận thì phát tâm Bồ-đề có nghĩa là phát tâm cầu quả Phật vì mục đích cứu độ tất cả chúng sinh.
Điều quan trọng cần nhấn mạnh trong ý nghĩa này là người phát tâm không hướng đến quả Phật chỉ riêng vì giải thoát tự thân khỏi vòng sinh tử khổ đau, mà là vì để có đủ trí tuệ, năng lực nhằm cứu độ tất cả chúng sinh, đưa tất cả chúng sinh đến quả vị giác ngộ viên mãn, chấm dứt khổ đau.
Chúng ta sẽ không thể hiểu được ý nghĩa này nếu chưa thấy được mối quan hệ thực sự cũng như ý nghĩa hiện hữu của mọi chúng sinh trong thực tại. Việc nhận biết khổ đau trong sinh tử nên phát tâm cầu đạo giải thoát là điều hoàn toàn có thể hiểu được. Nhưng nếu phát tâm cầu quả vị Phật mà không riêng vì sự giải thoát của chính bản thân mình, chỉ hướng đến mục đích trước tiên là cứu độ chúng sinh thì quả thật có vẻ như rất khó hiểu đối với nhiều người.
Tuy nhiên, nếu chúng ta nhớ lại lời Phật dạy căn bản nhất về ý nghĩa vô ngã, nghĩa là không hề có một bản ngã, một chủ thể tồn tại độc lập trong mối tương quan phân biệt với những chúng sinh khác, thì chúng ta sẽ nhận hiểu được ý nghĩa phát tâm Bồ-đề như trên một cách dễ dàng hơn.
Trên căn bản lời dạy này, liệu chúng ta có thể tu tập để giải thoát hoàn toàn mà không quan tâm đến những chúng sinh khác? Rõ ràng là điều đó không thể thực hiện được, bởi nếu ta tu tập khởi đầu với nền tảng bám chấp vào một bản ngã cần được giải thoát là chính ta, như một tự thể độc lập, thì tự thân sự chấp ngã ấy đã là một sợi dây trói buộc mà ta không tháo gỡ ra được, làm sao có được sự giải thoát rốt ráo?
Chính vì thế, tuy chúng ta vẫn có thể đạt đến những mức độ giải thoát nhất định, nhưng giới hạn cuối cùng là ta sẽ không bao giờ có thể đạt đến sự giải thoát rốt ráo hay thành tựu quả Phật. Điều này cũng tương tự như khi ta chọn khung giấy hẹp để vẽ một bức tranh. Cho dù ta có muốn vẽ ra một toàn cảnh lớn đến đâu, bức tranh cuối cùng cũng không thể vượt ra ngoài giới hạn của khung giấy hẹp. Cách duy nhất để vẽ nên một bức tranh lớn rộng là phải khởi đầu với khung giấy lớn rộng. Nói cách khác, nếu ta tu tập với một tâm thức chật hẹp thì sự giải thoát mà tâm ấy đạt đến cũng nhất định phải chật hẹp. Và vì thế, nếu ta phát tâm cầu sự giải thoát rốt ráo, thành tựu quả Phật, thì điều tất yếu là phải phát tâm trên căn bản vô ngã, xóa bỏ đi nhận thức phân biệt bám chấp vào một tự ngã tồn tại độc lập vốn là điều không thật có. Trên căn bản đó, sự tu tập của chúng ta nhất thiết phải hướng đến việc giải thoát cho tất cả chúng sinh thay vì là một tự ngã nhỏ hẹp và không thật có. Chính vì thế mà trong văn này phân biệt hai khuynh hướng phát tâm nhỏ hẹp và lớn lao như sau:
“Quán xét ba cõi như tù ngục, vòng sinh tử như kẻ oán thù, chỉ muốn mau mau tự độ, không dám nghĩ đến việc cứu độ muôn người. Phát tâm như thế gọi là nhỏ hẹp.”
Và:
“Pháp giới chúng sinh chưa cùng tận thì nguyện vẫn còn, đạo Bồ-đề chưa thành tựu thì nguyện chưa trọn. Phát tâm như thế gọi là lớn lao.”
Và như thế, phát tâm Bồ-đề không chỉ là cầu sự giải thoát, mà hơn thế nữa, ở đây đang nhắm đến một sự giải thoát rốt ráo, hoàn toàn, nghĩa là thành tựu quả Phật. Do đó, chúng ta cần phải tìm hiểu thêm về ý nghĩa rộng hơn của hai chữ Bồ-đề.
Thật ra, ở đây dùng từ ngữ Bồ-đề là cách nói vắn tắt, thông dụng, để chỉ đến một danh xưng đầy đủ hơn thường dùng trong kinh luận là A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, dịch nghĩa là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Danh xưng này được dùng chỉ đến sự giác ngộ viên mãn của một vị Phật, nên sự giác ngộ, trí tuệ, năng lực của ngài khi ấy là vô thượng, nghĩa là không còn ai hơn được. Vì thế, chúng ta đã gặp trong rất nhiều kinh luận đề cập một cách đầy đủ là “phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề”. Chẳng hạn, trong kinh Duy-ma-cật, phẩm Cõi Phật, chúng ta đọc thấy lời của Bảo Tích thưa với Phật:
“Bạch Thế Tôn! Năm trăm chàng con nhà trưởng giả đây, thảy đều đã phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nay muốn nghe việc được quốc độ thanh tịnh của Phật.”
Phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề chính là “phát tâm Bồ-đề” được nói trong bài văn này. Vì thế, phát tâm Bồ-đề là phát tâm cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cầu sự giải thoát rốt ráo, chấm dứt hoàn toàn mọi khổ đau, chứ không giới hạn ở sự giác ngộ thuộc bất kỳ tầng bậc nào khác.
Tuy nhiên, trên đường tu tập thì chúng ta nhất định sẽ phải trải qua từ thấp lên cao, từ xa đến gần, và những kinh nghiệm giác ngộ vì thế cũng phải trải qua tuần tự như từng nấc thang một. Vì thế, tuy nói rằng phát tâm Bồ-đề là cầu Phật quả, cầu sự giác ngộ tối thượng và không giới hạn ở các tầng bậc giác ngộ thấp hơn, nhưng điều đó cũng có nghĩa bao hàm trong đó tất cả mọi tầng bậc của sự giác ngộ, không thể bỏ qua.
Tầm quan trọng của việc phát tâm Bồ-đề
Ngay từ đoạn mở đầu bài văn, chúng ta đã thấy nêu lên tầm quan trọng của việc phát tâm Bồ-đề rằng: “cửa ngõ vào Chánh đạo, sự phát tâm quan trọng nhất.”
Chính từ ý nghĩa của sự phát tâm Bồ-đề như vừa tìm hiểu trên mà ta có thể hiểu được vì sao đây là điều quan trọng nhất trong “cửa ngõ vào Chánh đạo”. Bởi như đã nói, nếu không có sự phát tâm Bồ-đề chân chánh thì cho dù ta có khởi sự tu tập đúng hướng, kết quả của con đường tu tập đó cũng đã bị giới hạn ngay từ đầu do mục đích không được xác định đúng. Bởi vậy mới nói:
“Nguyện đã lập thành thì có thể cứu độ chúng sinh, tâm đã phát khởi thì quả Phật ắt thành tựu.”
Không nói việc thành tựu trong bao lâu, nhưng chắc chắn “tâm đã phát khởi” thì nhất định sẽ được thành tựu. Điều này cũng giống như khi ta cất bước trên con đường vạn dặm, tuy đích đến hãy còn xa vời, nhưng nếu đã thực sự có quyết tâm và cất bước lên đường, thì cho dù đường xa vẫn chắc chắn có ngày sẽ đến. Tương tự như thế, mục đích lên đường của chúng ta đã xác định là cứu độ tất cả chúng sinh, nên cho dù hiện nay tài sơ trí thiển, ta vẫn nhất định sẽ làm được một điều gì đó trong phạm vi khả năng của mình để hướng đến tất cả chúng sinh đang khổ đau.
Đó là lý do vì sao “nguyện đã lập thành thì có thể cứu độ chúng sinh”, bởi chúng sinh không phải là những đối tượng xa xôi trừu tượng chỉ để ta nhắc đến trong phần hồi hướng sau mỗi thời khóa tụng niệm, mà chúng sinh bao giờ cũng là những chúng sinh cụ thể quanh ta, từ những con vật bé nhỏ ta tiếp xúc mỗi ngày mà sinh mạng cũng như đời sống có thể dễ dàng nằm trong sự chi phối của ta, cho đến những người thân thiết trong gia đình, xóm giềng, hay rộng ra nữa là cả một cộng đồng, quốc gia, nhân loại…
Những chúng sinh như thế, nhất định sẽ được hưởng phần lợi lạc từ sự phát tâm lập nguyện của ta. Chỉ cần ta biết sống tỉnh giác hơn, quan tâm hơn đến những gì mình làm, là mỗi ngày đã có thể có vô số sinh vật bé nhỏ quanh ta có thể thoát khỏi những cái chết vì sự bất cẩn của ta. Người thân quanh ta cũng sẽ không còn phải chịu đựng những tổn hại do ta gây ra từ sự mê lầm, tham lam, sân hận của mình. Và do đó, ta càng tiến xa trên con đường tu tập theo đúng hướng thì sẽ càng có nhiều chúng sinh được cứu độ hơn, trong khi đích đến là quả Phật viên mãn cũng sẽ ngày càng gần hơn.
Chính trong ý nghĩa đó mà sự phát tâm lập nguyện được xem là quan trọng nhất, cấp thiết nhất. Một khi tâm Bồ-đề đã phát khởi, chí nguyện độ sinh đã lập thành, thì tất cả những việc còn lại chỉ còn là vấn đề thời gian tiệm tiến mà thôi.
Tuy nói đơn giản như vậy, nhưng mấu chốt quan trọng của vấn đề còn nằm ở chỗ sự phát tâm phải chân chánh đúng hướng, và chí nguyện phải được kiên trì không thối chuyển. Nếu phát tâm sai lầm thì cũng giống như người hăm hở lên đường nhưng lại lạc lối; lập nguyện mà không kiên trì thì sự thối chuyển là tất yếu, nên dù được một bước tiến e cũng sẽ có năm bảy bước lùi, việc làm lợi ích chúng sinh e rằng rất khó đạt được.
Chính vì thế, trước khi chính thức khuyến khích sự phát tâm Bồ-đề, bài văn này đã dành phần lớn nội dung để giải thích về khuynh hướng phát tâm cũng như động lực của việc phát tâm.
Khuynh hướng phát tâm chân chánh
Việc xác định các khuynh hướng phát tâm chân chánh thật ra cũng là dựa vào ý nghĩa của sự phát tâm Bồ-đề như ta đã tìm hiểu trên. Vì thế, hiểu được ý nghĩa của sự phát tâm thì có thể phát tâm chân chánh. Ngược lại, nếu không hiểu được, thì cho dù có nhiệt thành tu tập cũng rất dễ đi vào con đường sai lệch.
Trong văn này phân biệt bốn khuynh hướng phát tâm đúng đắn là chính đáng, chân thật, rộng lớn và viên mãn. Dẹp bỏ lòng tham muốn là chính đáng; kiên tâm cầu Phật đạo vì giáo hóa chúng sinh là chân thật; nguyện lực dài lâu không thối chuyển, hướng về tất cả chúng sinh là lớn lao; rõ biết hết thảy chúng sinh và tự tánh của mình vốn không hai, không khác, cũng chính là Phật quả vô thượng nên phát tâm thành tựu, nhưng rốt cùng vẫn không vướng mắc nơi hình tướng các pháp, đó là viên mãn.
Nếu chân chánh phát tâm được như thế thì không thể rơi vào các khuynh hướng sai lệch là tà vạy, dối trá, nhỏ hẹp và thiên lệch. Bởi vì tà vạy là tham cầu danh lợi, dục lạc; dối trá là che giấu tội lỗi, ngoài sạch trong dơ, trước chuyên cần, sau lười nhác; nhỏ hẹp là chỉ nghĩ đến mình, ích kỷ không vị tha; thiên lệch là nhận thức phân biệt nhân ngã, bám chấp vào tự ngã mà tu tập, không rõ biết tự tánh sáng suốt của chính mình.
Tóm lại, nếu thực sự phát tâm chân chánh như trên thì rõ ràng là hoàn toàn tương hợp với ý nghĩa vì cứu độ tất cả chúng sinh mà cầu quả Phật.
Nhân duyên phát tâm Bồ-đề
Nhân duyên phát tâm Bồ-đề cũng chính là những những động lực thôi thúc, làm khởi sinh tâm ấy nơi mỗi người. Những nhân duyên này có được là nhờ hiểu sâu ý nghĩa của việc phát tâm. Nếu xét kỹ, ta sẽ thấy trong mười nhân duyên phát tâm được nêu ra, không một nhân duyên nào đơn thuần xuất phát từ ý niệm vị kỷ, mong cầu sự giải thoát cho riêng mình. Vì thế, có thể nói rằng những nhân duyên phát tâm Bồ-đề được đề cập ở đây đều xuất phát từ sự nhận hiểu đúng thật về thực tại trên căn bản giáo lý vô ngã mà đức Phật đã dạy.
Nhân duyên trước hết là nghĩ nhớ ơn Phật. Những người chưa hiểu được lời Phật dạy, chưa vận dụng những lời dạy đó vào cuộc sống, thì chưa thể biết đến ơn Phật sâu nặng như thế nào. Vì sao vậy? Vì họ chưa thể nhận được những lợi lạc lớn lao từ lời dạy của Phật. Ví như có người thuộc lòng kinh điển hay giảng thuyết uyên bác, nhưng chưa vận dụng lời dạy của đức Phật vào cuộc sống của chính mình, thì người ấy vẫn chưa thể nhận được những lợi ích lớn lao thực sự.
Một khi đã có sự hành trì theo lời Phật dạy, dù ở bất kỳ mức độ nào, chúng ta đều sẽ nhận được những sự lợi lạc tương ứng từ sự tu tập của chính mình. Những lợi lạc đó giúp ta ngày càng nhận rõ sự khác biệt giữa một cuộc sống mê mờ không Phật pháp với một cuộc sống tỉnh thức, nhận biết mọi sự việc quanh mình một cách đúng thật như lời Phật dạy.
Khi nhận ra điều đó, ta sẽ thấy rằng không có bất kỳ giá trị nào ở cõi đời này có thể sánh được với những lời Phật dạy. Nhờ sống theo Phật pháp, chúng ta giảm nhẹ và chuyển hóa được khổ đau, thấy ra được những ý nghĩa chân thật của đời sống và thoát khỏi sự quay cuồng trong tham dục, sân hận và si mê.
Hơn thế nữa, ta có thể nhìn nhận những thực tại của đời sống như các nỗi khổ sinh lão bệnh tử, cho đến kiếp người ngắn ngủi nhanh chóng trôi qua, mà không còn có sự sợ hãi hay chán nản. Ta biết cách để vượt qua với tâm thái an nhiên tự tại, cảm nhận và trải nghiệm mọi nỗi khổ niềm đau trong cuộc đời để từ đó cảm thông sâu sắc hơn với mọi người quanh ta.
Tất cả những điều đó nâng tầm cuộc sống ta lên khỏi bùn lầy nhơ nhớp của sự trụy lạc tham muốn, giúp ta có một đời sống ý nghĩa hơn và cũng có được niềm vui chân thật trong từng giây phút sống.
Nói tóm lại, ta có được tất cả những lợi lạc vô giá đó đều là nhờ học hỏi và làm theo lời Phật dạy. Vì thế, không một ai trong cõi đời này có thể ban cho ta những ân huệ lớn lao như đức Phật. Công ơn cha mẹ dù mênh mông như trời biển vì đã sinh dưỡng, tạo thành thân ta, nhưng nếu không có Phật pháp thì tấm thân này, cuộc đời này rồi cũng sẽ chìm sâu trong khổ đau buồn chán cho đến lúc quay về cát bụi mà không thể tìm thấy một ý nghĩa sống chân thật nào.
Vì thế, để báo đáp ơn Phật, chúng ta không có cách nào khác hơn là phải phát tâm tu tập đúng theo lời Phật dạy, thực hiện tâm nguyện của đức Phật khi xuất thế là cứu độ tất cả chúng sinh. Và muốn làm được như vậy, ta nhất định phải phát tâm Bồ-đề. Đó là nhân duyên hay động lực thứ nhất. Nếu ta phát tâm với động lực này, thì rõ ràng một khi chưa đạt đến quả Phật, ta vẫn còn có sự thôi thúc phải vươn lên, nỗ lực hướng đến mục đích đã đề ra.
Nhân duyên hay động lực thứ hai là nghĩ nhớ đến công ơn cha mẹ. Nếu như đức Phật là người ban cho ta tuệ mạng để có được một đời sống chân chánh, sáng suốt, thì trước hết để tiếp nhận tuệ mạng đó, ta cần phải có thân mạng bằng xương thịt này, vốn có được là nhờ biết bao công khó, biết bao khổ nhọc từ cha mẹ. Cha mẹ là nhân duyên lớn lao tạo ra đời sống này của ta, nhờ đó ta mới có điều kiện biết đến và tu tập Phật pháp.
Hơn thế nữa, đức Phật còn dạy cho ta biết rằng, chúng ta không chỉ có cha mẹ trong đời này, mà trải qua vô số kiếp sống từ vô thủy đến nay, ta đã có không biết bao nhiêu là cha mẹ.
Vì thế, động lực thứ hai thôi thúc ta phát tâm Bồ-đề chính là nghĩ nhớ và mong muốn đền đáp công ơn trời biển của cha mẹ, không chỉ một đời này mà còn là trong vô số đời sống đã qua. Để làm được điều đó, ta chỉ có một cách duy nhất là phải tu tập hướng đến quả Phật, để có được năng lực toàn giác toàn tri và cứu độ được tất cả chúng sinh. Nếu không được vậy thì việc báo đáp công ơn cha mẹ sẽ là một điều hoàn toàn bất khả thi.
Nhân duyên thứ ba là nghĩ nhớ đến ơn thầy dạy dỗ. Ta sinh ra trong cuộc đời này không sẵn có bất kỳ tri thức nào. Những người truyền trao tri thức hữu ích cho ta chính là các bậc thầy dạy dỗ. Trong văn này phân rõ những người thầy dạy ta kiến thức thế tục và những người thầy dạy ta Phật pháp.
Thầy dạy kiến thức thế tục là tạo cho ta nền tảng tốt để tiếp nhận Phật pháp, vì nhờ đó ta có thể sống đúng theo đạo nghĩa làm người, có thể đọc hiểu kinh điển, hiểu được lời giảng dạy của các bậc pháp sư.
Thầy dạy Phật pháp là cầu nối giữa ta và đức Phật, vì các ngài đem những lời Phật dạy truyền lại cho ta cũng như dùng đời sống đạo hạnh của chính mình để nêu gương hành trì Phật pháp cho ta. Chính nhờ có các ngài mà Phật pháp mới trở nên sống động, gần gũi và chúng ta mới có thể khởi sự thực hành tu tập.
Để báo đáp ơn thầy dạy dỗ, ta không có cách nào khác hơn là phát tâm cầu Phật quả, tu tập theo giáo pháp Đại thừa, vì như vậy mới có thể rộng độ muôn người, trong đó có cả vô số các bậc thầy đã nhiều đời nhiều kiếp có ơn dạy dỗ ta.
Các nhân duyên, động lực phát tâm được phân tích trong văn này có đặc điểm chung là đều xuất phát từ một cách nhìn trí tuệ sâu sắc, đúng thật và một trái tim chân thành, nhạy cảm. Khi trôi lăn theo dòng thế tục, rất nhiều sự việc xảy đến với ta đều có vẻ như tầm thường, không đáng quan tâm, nhưng một khi khởi sinh trí tuệ tỉnh giác, đem ánh sáng Phật pháp mà soi rọi vào, ta mới bừng tỉnh nhận ra vô số những điều sâu xa tinh tế, trong đó có cả những lỗi lầm đáng sợ, những phước lực lớn lao, những duyên may khó được… Nếu không nhận chân được những điều như thế, thì ta sẽ không bao giờ có được động lực chân chánh để tu tập, để dấn bước trên con đường giải thoát.
Lấy ví dụ như việc thập phương tín thí cúng dường người xuất gia, không ít người trong chúng ta từ lâu vẫn xem như một chuyện đương nhiên phải vậy. Nhưng nếu cứu xét sâu xa theo văn này, thì đó lại là một món nợ hết sức lớn lao mà không thể nào đền trả theo cách thông thường được. Đại sư dạy:
“… cho dù hạt gạo sợi tơ, nhỏ nhặt đến thế cũng phải đền trả đủ, mà quả báo xấu ác cũng khó lòng tránh khỏi.”
Thật đáng sợ thay! Chẳng những về vật chất đã phải đền trả đủ đến từng hạt gạo, sợi tơ, mà người nhận cúng dường nếu không tu tập chân chánh còn phải gánh chịu thêm quả báo xấu ác! Xét như thế thì món nợ này quả thật đáng sợ hơn hết thảy những món nợ vay trả thông thường trong chốn thế gian. Và vì thế, người xuất gia chỉ có một con đường duy nhất để có thể làm lợi mình lợi người, vừa trả dứt món nợ đã vay, vừa thành tựu tâm nguyện đã phát khởi, đó là:
“… vận dụng đủ bi lẫn trí, … tự trang nghiêm cả phúc lẫn tuệ, khiến cho tất cả đàn-na tín thí đều được nhờ ơn, hết thảy chúng sinh đều được lợi ích…”
Con đường duy nhất này cũng chính là nhân duyên, là động lực thứ tư thôi thúc chúng ta phát tâm Bồ-đề, thành tựu quả Phật.
Mặt khác, mối quan hệ giữa ta với những chúng sinh khác thường chỉ được nhìn nhận trong sợi dây liên hệ trước mắt, của một kiếp sống này. Thế nhưng, nếu chúng ta thực sự tin nhận những gì mà trí tuệ giác ngộ của đức Thế Tôn đã thực sự rõ biết, thì sự hiện hữu từ vô thủy đến nay của mỗi chúng ta đều đã từng trải qua vô số kiếp, nên cũng đã từng có mối quan hệ thân thiết với vô số chúng sinh khác, từng thay nhau làm cha mẹ, con cái của nhau, từng nuôi dưỡng lẫn nhau…
Hơn thế nữa, ngày nay ta may mắn được sinh làm người, được nghe biết nhận hiểu pháp Phật, trong khi vô số những chúng sinh đã từng là cha mẹ của ta, ngày nay hẳn không ít người đang phải chịu khổ não trong ba đường ác, từ những nỗi khổ kinh hoàng trong địa ngục, cho đến mang lông đội sừng trong loài súc sinh hoặc dế giun trùng kiến… Những thảm cảnh ấy, nếu như ta không quan tâm đến việc cứu giúp, độ thoát cho họ, thì quả thật không thể dựa vào đâu mà có thể viên thành đạo quả. Cho nên, đây cũng chính là nhân duyên, là động lực thứ năm thôi thúc ta phát tâm Bồ-đề.
Đến như nỗi khổ sinh tử trong cuộc đời này, đối với hầu hết chúng ta thì bất quá cũng chỉ là vì đời sống ngắn ngủi, không bao lâu đã phải dứt bỏ cuộc đời này, xa cách mọi người thân, từ bỏ mọi ham muốn… Nhưng nếu xét một cách sâu xa theo văn này, thì cái khổ ta thấy được trong một đời thật chẳng đáng vào đâu so với nỗi khổ lăn lộn nhiều đời trong vòng sinh tử, đã không tính đếm được ngày qua, lại càng không hẹn được ngày chấm dứt. Cho nên, đáng sợ nhất vẫn là khi chúng ta:
“… cứ tham luyến như xưa, si mê không khác trước, chỉ sợ trong muôn kiếp ngàn đời, một lần sai sẽ trăm lần sai tiếp.”
Và vì thế phải luôn xét nghĩ:
“Thân người này khó được dễ mất, tuổi đời trôi nhanh không thể níu kéo. Rồi đường trước mịt mờ, một lần biệt ly là thăm thẳm. Nghiệp báo xấu ác trong ba đường dữ, tự làm tự chịu. Đau đớn không sao nói hết, biết ai thay mình nhận lãnh?”
Cho nên, nếu muốn “dứt dòng sinh tử, thoát biển ái dục, cứu mình cứu người, cùng lên bờ giác” thì chỉ có một cách duy nhất là phát tâm Bồ-đề, cầu thành Phật quả. Đó chính là nhân duyên, là động lực thứ sáu thôi thúc ta phát tâm Bồ-đề.
Khi văn này bàn đến nhân duyên thứ bảy – tự tánh linh giác – thì hoàn toàn không còn nằm trong phạm vi nhận biết thông thường của chúng ta nữa, mà chỉ có thể dựa vào niềm tin sâu xa nơi Phật pháp. Người chưa đủ niềm tin vào Phật pháp thì sẽ thấy đây là điều hết sức trừu tượng, khó hiểu, khó tin. Mặc dù trong nhiều kinh điển, đức Phật luôn nhắc lại việc mỗi chúng sinh đều sẵn có tánh Phật, đều có khả năng thành tựu quả Phật, nhưng không phải ai cũng có thể tin nhận chắc chắn điều này. Tuy nhiên, xét kỹ lại thì người Phật tử nếu không tin nhận được lời dạy này, ắt hẳn sự tu tập chỉ có thể hướng về đức Phật như một vị thần cầu xin cứu rỗi, mà không thể quay về nơi chính tự tánh linh giác của mình để nuôi dưỡng quả giác ngộ. Và sự tu tập như thế thì chắc chắn sẽ không thể nào thành tựu quả Phật. Cho nên, tin chắc vào tự tánh sẵn có, vào năng lực thành Phật trong tương lai của chính mình, đó là nhân duyên, động lực thứ bảy thôi thúc ta phát tâm Bồ-đề.
Về ý nghĩa sám hối nghiệp chướng, văn này phân tích một thực trạng mà bình thường chúng ta ít khi nhận biết, đó là phần lớn thời gian trong cuộc đời ta, chỉ cần một chút sơ ý là đã phạm vào tội này nghiệp nọ, nhiều không kể xiết. Người thế tục đã vậy, đối với người xuất gia lại càng dễ phạm hơn, bởi biết bao nhiêu là luật nghi giới hạnh chi ly nghiêm mật, cho nên mới nói rằng:
“… mỗi hành vi, động tác thường phạm giới hạnh; mỗi miếng cơm, ngụm nước luôn trái luật nghi.”
Hơn thế nữa, nhìn nhận trong toàn cảnh luân hồi thì lại càng đáng sợ hơn nữa, bởi vì:
“Mỗi một ngày qua đã phạm vô số tội, huống chi trong suốt một đời, trải qua nhiều kiếp, tội lỗi sinh khởi chắc chắn là không thể nói hết!”
Đã vậy, thực trạng thường gặp lại là: “người bày tỏ phát lộ thì ít, kẻ che giấu lại nhiều”. Tội lỗi nếu không được phát lộ sám hối thì dựa vào đâu mà tiêu trừ? Dựa vào đâu mà sửa đổi? Do đó mà đường trước mênh mang không còn lối thoát, chỉ có thể ngày thêm sa đọa mà thôi.
Nhận biết thực trạng này không phải là một cách nhìn bi quan, mà là một bước khởi đầu nhất thiết phải có nếu chúng ta thực sự muốn thoát ra khỏi vòng sinh tử. Nếu không nhìn nhận đúng thật để nỗ lực hối cải, thì chắc chắn muôn đời ngàn kiếp cũng không bao giờ có thể thay đổi được thực trạng này. Đây chính là nhân duyên, động lực thứ tám thôi thúc ta phát tâm Bồ-đề.
Nhân duyên thứ chín được đề cập trong văn này là niềm tin sâu vững vào pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu vãng sinh. Đây là một điều rất đáng lưu tâm, bởi ngài Thật Hiền chẳng những được biết là uyên thâm Tam tạng thánh điển, mà còn chứng ngộ thiền cơ sau khi tham cứu công án “ai là người niệm Phật”, tự bộc lộ rằng “ta tỉnh mộng rồi”. Ngài được Pháp sư Thiệu Đàm ấn chứng là thế hệ thứ tư của phái thiền Linh Phong thuộc tông Thiên Thai. Một thiền sư thực chứng thực ngộ như ngài lại hết lòng xiển dương pháp môn Tịnh độ, cho thấy cách nhìn nhận của nhiều người học thiền ngày nay đối với pháp môn Tịnh độ quả thật hết sức sai lệch, mà ý nghĩa “thiền tịnh song tu” có thể thấy rất rõ ở trường hợp của ngài.
Về việc vãng sinh Tịnh độ, Đại sư nêu rõ lý do phát nguyện thật đơn giản dễ hiểu mà hết sức thuyết phục: “Phát tâm là để tu hành, nếu không sinh về Tịnh độ thì dù phát tâm rồi cũng sẽ thối chuyển.” Ngũ trược ác thế là điều thật có, muôn ngàn chướng duyên nơi cõi Ta-bà là không thể phủ nhận. Vì thế, đối với những ai chưa đủ dũng lực và trí tuệ để dấn bước trên đường giải thoát thì việc thối tâm nản chí là hết sức dễ dàng. Ngược lại, vãng sinh về Tịnh độ là một thuận duyên lớn lao, nhân đó có thể giúp cho công phu tu tập của hành giả được ngày thêm sâu vững, đại nguyện độ sinh mới có cơ hội thành tựu mà không lo về sự thối chuyển. Tiến trình tu tập được Đại sư mô tả như sau:
“Ruộng tâm địa gieo hạt giống Bồ-đề, dùng lưỡi cày niệm Phật, thì đạo quả tự nhiên tăng trưởng. Nương con thuyền đại nguyện, vào biển lớn Tịnh độ, cõi Tây phương quyết định được vãng sinh.”
Và do đó, việc cầu sinh Tịnh độ cũng chính là nhân duyên, động lực thứ chín thúc đẩy ta phát tâm Bồ-đề.
Nhân duyên cuối cùng của việc phát tâm Bồ-đề là giữ cho Chánh pháp được trụ thế lâu dài. Trong văn này phân tích và nhìn nhận sự suy vi của đạo Phật trong thời mạt pháp, bởi “Giáo pháp không người tu tập, tà chánh chẳng thể phân, đúng sai không rõ biết; người người tranh đua chạy theo nhân ngã, thảy thảy đều mưu cầu lợi danh”. Trước thực trạng đó, người Phật tử chân chánh không thể không rơi lệ bi thương, khởi phát đại nguyện hoằng dương Chánh pháp. Vì thế, việc cầu sinh Tịnh độ như nói ở phần trên không chỉ là lợi ích cho sự tu tập của riêng mình, mà còn là để “tiến tu lên hàng cửu phẩm, quay lại cõi Ta-bà, làm cho mặt trời Phật đạo rực rỡ huy hoàng như trước, Phật pháp rộng mở khắp thế gian, chư Tăng như biển lớn thanh tịnh trong toàn cõi, người người được hóa độ ngay tại Ta-bà, đời thịnh đức nhờ đó tăng thêm, Chánh pháp trụ dài lâu cõi thế”.
Trong ý nghĩa đó, có thể nói nhân duyên hay động lực cuối cùng này cũng là bao hàm ý nghĩa trọn vẹn nhất của sự phát tâm Bồ-đề, bởi chính là hướng đến việc thành tựu quả Phật để hoằng dương Chánh pháp, cứu độ hết thảy chúng sinh.
Biện giải về sự cần thiết của việc phát tâm Bồ-đề
Nhận thức rõ được mười nhân duyên phát tâm Bồ-đề cũng chính là thấu triệt được ý nghĩa chân chánh của việc phát tâm. Vì thế, khi kết hợp phân biệt các khuynh hướng phát tâm với các nhân duyên thúc đẩy này, thì người tu tập đã có đủ nền tảng để phát tâm. Vấn đề còn lại chính là phải thấy được sự cần thiết của việc phát tâm ấy. Vì sao là cần thiết? Vì thân người là khó được, Phật pháp khó được nghe, cho đến các thuận duyên tu tập cũng đều không dễ có. Nay đường tu đã không chướng ngại, có thể khởi sự tu tập mà lại không quả quyết phát tâm, thì một khi cơ hội đã luống qua, e rằng muôn kiếp ngàn đời cũng không dễ tìm lại được. Vì thế, Đại sư mới tha thiết khuyên dạy khuyến khích:
“Người chưa phát tâm, hôm nay hãy phát tâm; đã phát tâm rồi xin hãy tăng trưởng; đã tăng trưởng rồi, xin hãy tiếp tục đừng gián đoạn.”
Dù vậy, do tập khí mê muội nhiều đời chưa dứt, nên cũng không khỏi gặp phải bao chướng ngại khi phát tâm, mà thường gặp nhất vẫn là những khiếm khuyết, yếu kém mà phần lớn chúng ta không ai tránh khỏi. Vì thế, trong phần này đề cập đến mọi điểm yếu thường gặp đối với một hành giả khi phát tâm như e ngại khó khăn, dể duôi xem thường, quá nhiệt tình nôn nóng, lười nhác biếng trễ, yếu ớt không quả quyết, do dự lần lữa, mặc cảm thua kém, tự ti… Đối với những điều ngăn ngại đó, hành giả cần có quyết tâm hướng thiện, thấy biết sự khiếm khuyết của hiện tại nhưng vững tin ở sự hoàn thiện trong tương lai. Có như vậy thì sự phát tâm mới có thể khả thi. Đại sư nhấn mạnh:
“Nên biết rằng tội nhân trong địa ngục, mà còn có kẻ phát tâm Bồ-đề từ kiếp trước, huống chi là Phật tử trong cõi người, lại không lập đại nguyện đời này?”
Hơn thế nữa, trên đường tiến tu thì sự thối tâm chuyển ý là mối nguy cơ luôn đe dọa, nên người tu tập cần phải luôn tỉnh giác ghi nhớ trong lòng:
“Đừng cho một niệm tưởng là nhỏ nhoi [mà khinh suất dể duôi], đừng nghĩ việc phát nguyện chỉ là [nói suông nên] hư dối không hữu ích. Tâm chân thành thì sự việc đúng thật, nguyện lớn rộng thì chỗ thực hành sâu. Hư không chưa phải lớn, vì tâm này mới là rộng lớn; kim cương chưa phải bền chắc, vì nguyện lực còn bền chắc không gì hơn.”
Nếu thực sự vững lòng tin được như vậy, thì con đường giải thoát dù xa diệu vợi nhưng Phật quả xem như đã ở trong tầm tay, chỉ đợi ngày thành tựu. Tuy nhiên, nếu muốn duy trì tín tâm và hạnh nguyện, người tu tập nhất thiết “phải dùng giới pháp của Phật mà làm đòn roi nhắc nhở thôi thúc; nhờ bạn lành cùng nâng đỡ, dắt dẫn nhau. [Đã phát tâm rồi], dù khi nguy cấp, gấp rút cũng chẳng lìa, dẫu suốt đời trọn kiếp, vẫn nương theo không bỏ, như vậy thì không còn lo gì sự thối thất”.
Kết luận
Trong một bài văn ngắn gọn mà đề cập đến những chủ đề hết sức quan trọng và bao quát, quả thật không dễ dàng chút nào. Để có thể đề cập, phân tích từng khía cạnh của vấn đề một cách chi ly, chính xác và gãy gọn như trên, người viết nhất định phải đã từng trải qua những kinh nghiệm tự thân và có sự nhận hiểu tinh tế, cũng như rõ biết được từng khó khăn, chướng ngại của giai đoạn phát tâm ban đầu. Chính vì thế, những lời chỉ dẫn, khuyên dạy trong bản văn này đã sớm trở thành khuôn vàng thước ngọc cho biết bao người trong suốt mấy trăm năm qua. Hòa thượng Thích Trí Quang chia sẻ kinh nghiệm tự thân của ngài và cảm nhận về bài văn này như sau:
“Phát bồ đề tâm văn là một bài văn rất ngắn, nhưng nội dung của bài văn này, bất cứ người học Phật nào cũng phải nằm lòng, không những vậy mà phải đời đời khắc cốt ghi tâm. Chúng tôi trong những ngày đầu tiên chập chững bước đi trên con đường đạo, may mắn đã đọc được bài văn này. Nếu không có bài văn này có lẽ chúng tôi đã bị dòng thác cuộc đời kéo phăng đi mất.”
Sự thật là không ít người tu tập đã từng bị “kéo phăng đi mất” chỉ vì không có sự kiên tâm lập nguyện ban đầu. Ở ngưỡng cửa bước vào đạo Phật, hầu hết chúng ta đều như nhau, mỗi người đều chất ngất mê lầm với vô vàn tập khí xấu ác. Cho nên, vấn đề không phải là hơn nhau nơi trí tuệ hay năng lực, mà điều quan trọng chính là ở sự kiên tâm lập nguyện. Và muốn có sự kiên tâm lập nguyện thì điều kiện trước tiên là phải thấu triệt được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc phát tâm Bồ-đề, cũng như những khuynh hướng và nhân duyên, động lực chân chánh của sự phát tâm.
Có thể nói, bài văn ngắn gọn này đã cung cấp cho chúng ta tất cả những yếu tố cần thiết đó. Những ai được đọc qua bài văn này, thật may mắn biết bao!
Phần 5: Tiểu sử Đại sư Thật Hiền
Lời dẫn
Vào đời Thanh, Bành Tế Thanh thu thập các trước tác, di thư của Đại sư Thật Hiền, khắc in thành Tỉnh Am Pháp sư ngữ lục (省菴法師語錄), gồm 2 quyển, hiện còn trong Vạn tân toản Tục tạng kinh, Tập 62, kinh số 1179, bắt đầu từ trang 232, tờ c, dòng thứ 6.
Cuối quyển 2 của bản ngữ lục này có phụ đính Tỉnh Am Pháp sư truyện (省菴法師語錄), bắt đầu từ trang 259, tờ a, dòng thứ 12.
Đại sư viên tịch vào năm 1734, niên hiệu Ung Chính thứ 12 đời Thanh. Tiểu truyện này được biên soạn vào niên hiệu Càn Long thứ 10 (1745), chỉ 11 năm sau khi Đại sư qua đời, nên rất đáng tin cậy. Tham khảo nhiều tài liệu khác viết về cuộc đời Đại sư thì thấy dường như phần lớn các chi tiết đều xuất phát từ bản văn này. Vì thế, ở đây chúng tôi chuyển dịch trọn vẹn bản tiểu truyện này để độc giả tiện tham khảo.
Tỉnh Am Pháp sư truyện (省庵法師傳)
Đại sư tên húy là Thật Hiền (實賢), tên tự Tư Tề (思齊), pháp hiệu Tỉnh Am (省庵), thuộc dòng họ Thời ở Thường Thục. Gia đình vốn nhiều đời truyền nối theo Nho học. Ngài sinh ra đã không chịu ăn thức ăn mặn hôi tanh, tuổi còn thơ ấu đã sớm nuôi chí thoát tục.
Cha ngài mất sớm, mẹ là người họ Trương, biết ngài sẵn đủ căn lành đời trước nên khuyến khích xuất gia. Năm 7 tuổi đã đến am Thanh Lương lạy ngài Dung Tuyển làm thầy. Ngài thông tuệ minh mẫn, hết thảy Kinh điển đã đọc qua đều nhớ kỹ không quên. Năm 15 tuổi chính thức xuống tóc, lìa tục xuất gia, khi ấy đã tinh thông hết thảy sách vở thế gian, biết làm thơ và giỏi môn thư pháp. Các bậc tiền bối [tài danh đương thời] như Tiền Ngọc Hữu, Hứa Dương Cốc đều muốn cùng ngài kết giao [bàn chuyện thơ văn], nhưng không một giây phút nào ngài xao lãng việc lớn là thoát vòng sinh tử.
Ngài một lòng hiếu thảo. Khi mẹ mất, ngài quỳ trước bàn Phật tụng kinh Báo ân đủ 49 ngày. Sau đó mỗi dịp kỵ giỗ hằng năm đều cung kính thiết cúng.
Một hôm đến chùa Phổ Nhân, nhìn thấy có vị tăng đột ngột ngã lăn ra đất chết, ngài hốt nhiên nhận rõ được ý nghĩa vô thường trong kiếp sống, nên càng tự thúc giục mình nỗ lực tu tiến mãnh liệt hơn.
Năm 24 tuổi, ngài thọ giới Cụ túc tại chùa Chiêu Khánh, nghiêm cẩn học tập giữ theo Giới luật, không rời y bát, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, tỉnh giác đến mức không lúc nào đặt lưng xuống chiếu, luôn noi theo như thế làm sự hành trì thường nhật.
Đến năm Canh Dần, ngài theo Pháp sư Cừ Thành nghe giảng kinh Pháp Hoa, rồi tìm đến ra mắt Pháp sư Thiệu Đàm nghe giảng về Duy Thức, Lăng Nghiêm, Chỉ Quán… Ngài học tập nghiên cứu cả ngày đêm, chưa được ba năm mà các yếu chỉ Tam quán, Thập thừa của tông Thiên Thai, cùng với các môn học phân biện về tánh và tướng đều thông suốt. Pháp sư Thiệu Đàm liền thọ ký cho ngài là truyền nhân đời thứ tư của phái Linh Phong, thuộc Thiên Thai chánh tông.
Vào năm Giáp Ngọ, ngài đến lễ Hòa thượng Linh Thứu tại Sùng Phúc, tham câu thoại đầu “ai là người niệm Phật”. Ngài miên mật nắm giữ thoại đầu ấy, ròng rã qua bốn tháng trời, hốt nhiên có sự khế ngộ, tự nói ra rằng: “Mộng ta đã tỉnh rồi.”
Kể từ đó ngài hành xử ứng biến tùy cơ không ngăn ngại, biện tài dọc ngang tự tại. Hòa thượng Linh Thứu muốn giao phó truyền thừa, ngài không nhận, từ biệt ra đi, rồi đến ẩn cư nơi chùa Chân Tịch, ban ngày đọc Tam tạng Kinh điển, đêm hành trì niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Đủ kỳ hạn ba năm, tăng chúng trong chùa cung thỉnh giảng kinh Pháp Hoa, ngài lên tòa khai giảng, lời lời đều như sông tuôn suối trào, lưu loát không ngăn ngại.
Đầu xuân năm Mậu Tuất, Đại sư dừng chân ở chùa Long Hưng, Hàng Châu, Pháp sư Thiệu Đàm bảo thay ngài giảng giải Kinh, Luật, đại chúng người người đều ngợi khen xưng tán.
Mùa xuân năm Kỷ Hợi, ngài đến chiêm bái xá-lợi Phật trong tháp thờ ở núi Tứ Minh. Ngài đốt ngón tay cúng Phật trước sau 5 lần. Mỗi năm đến ngày kỷ niệm Phật nhập Niết-bàn đều diễn giảng hai kinh Di Giáo và Di Đà, nêu rõ ý nghĩa tâm này là Phật, nhờ đó mà căn cơ ba bậc đều được dắt dẫn, Chánh pháp giáo hóa rộng khắp mọi nơi; tăng ni, cư sĩ toàn vùng Giang Chiết đều hướng tâm quy ngưỡng. Trải qua mười năm, pháp tòa càng thêm hưng thịnh, rộng truyền đến khắp muôn phương. Đại sư cũng nhận lời cung thỉnh đến các chùa Vĩnh Phúc, Phổ Khánh và Hải Vân. Mỗi lần ngài đến đâu thì khuôn phép nơi ấy được chấn chỉnh tươi mới, thanh quy được nghiêm túc kính tuân. Mỗi khi giảng các kinh Lăng Nghiêm, Pháp Hoa… người đến nghe và thưa hỏi nghĩa kinh luôn tụ tập chen chúc nhau dưới pháp tòa.
Không bao lâu, Đại sư lại lui về chùa Tiên Lâm thuộc Hàng Châu ẩn tu, đóng cửa chuyên tâm, ra sức tu tập Tịnh độ.
Mùa đông năm Kỷ Dậu, cư sĩ Hàng châu gồm các ông Mao Tĩnh Viễn, Diệp Thăng, Hoàng Phủ Tử Nghi, Lý Chấp Ngọc, cùng các thầy Giám viện là Tỉnh Cung, Nhất Vi… đồng đến cung thỉnh ngài trụ trì chùa Phạm Thiên ở núi Phụng Sơn. Từ đó, ngài dứt hết muôn duyên, chỉ toàn nêu cao Tịnh độ, đặt kỳ hạn tu tập lâu dài, lập quy ước nghiêm túc cho mọi người, ngày đêm sáu thời cùng hỗ trợ, khuyên nhắc, thúc giục nhau gắng sức tu tập. Người người đều cho rằng ngài là Đại sư Vĩnh Minh tái thế.
Ngài giữ cương vị trụ trì các chùa trước sau hơn mười năm, đệ tử được hóa độ xuất gia cùng cư sĩ quy y thọ giới có đến mấy trăm người. Trong số đó, những ai theo học văn thơ thì ngài thống thiết khuyên răn, dạy rằng: “Mạng người chỉ trong hơi thở, sao có thể nhàn rỗi theo học chữ nghĩa thế tục? Chỉ một chút sai lầm đã rơi ngay vào đời khác, [khi ấy] muốn thoát ra thật khó lắm thay!”
Vào ngày lễ Phật Thành đạo năm Quí Sửu, ngài nói với đệ tử: “Năm sau, ngày 14 tháng 4 ta đi xa rồi.” Từ đó, ngài đóng cửa ẩn tu, giữ lòng thanh tịnh, đặt kỳ hạn mỗi ngày đêm niệm đủ mười vạn câu Phật hiệu.
Sang năm sau, Giáp Dần, mồng hai tháng tư, ngài mở cửa ra thất. Đến ngày 12 nói với đại chúng: “Trước đây mười ngày ta đã nhìn thấy Tây phương Tam Thánh giáng hạ giữa hư không. Nay lại thấy lần nữa. Đã đến lúc ta sinh về Tịnh độ.” Liền dặn dò công việc trong chùa, lại đi từ biệt khắp hết những cư sĩ hộ pháp trong thành. Thị giả thỉnh lưu kệ, ngài viết:
身在華中佛現前。
佛光 來照紫金蓮。
心隨諸佛往生去。
無去來中事 宛然。
Thân tại hoa trung, Phật hiện tiền,
Phật quang lai chiếu tử kim liên.
Tâm tùy chư Phật vãng sinh khứ,
Vô khứ lai trung sự uyển nhiên.
Dịch nghĩa:
Thân sinh ra giữa đóa hoa, Phật hiện trước mặt,
Hào quang Phật soi chiếu, hoa sen màu vàng sắc tía.
Tâm nương theo chư Phật được vãng sinh rồi,
Trong chỗ không đến đi, mọi việc đều hiển nhiên rõ ràng.
Tạm dịch:
Thân giữa hoa, Phật hiện tiền,
Phật quang tỏa rạng tòa sen chói ngời.
Tâm nương Phật vãng sinh rồi,
Đến đi dứt bặt, mặc tình chiếu soi.
Viết kệ xong, ngài bảo đệ tử: “Vào ngày mười bốn, ta định vãng sinh, các ông hãy vì ta tập hợp đại chúng cùng niệm Phật.”
Ngày 13, ngài thôi không ăn uống, suốt ngày ngồi thẳng người trang nghiêm, mắt khép hờ. Đến canh năm tắm rửa, thay y phục nghiêm trang rồi ngồi kiết già quay mặt về hướng tây. Khoảng giờ tỵ ngày 14, mọi người khắp chốn gần xa cùng tụ tập về, thảy đều gạt nước mắt, quỳ lạy thưa thỉnh: “Mong Đại sư ở lại cõi đời cứu độ muôn người.”
Ngài mở mắt dạy rằng: “Ta đi rồi trở lại ngay. Giải thoát sinh tử là việc lớn, mỗi người hãy tự mình tĩnh tâm niệm Phật.”
Nói xong liền chắp hai tay, niệm danh hiệu Phật rồi thị tịch. Giây lát, nơi lỗ mũi chảy xuống vài giọt nước, dung nhan vẫn tươi nhuận sáng đẹp, cho đến khi liệm vào áo quan cũng không thay đổi.
Trong năm ấy, vào ngày mồng tám tháng chạp, trụ trì chùa Ngu Sơn là Đại sư Vô Trụ [cùng bốn chúng đệ tử] cung kính thỉnh đưa linh cốt ngài về dựng tháp thờ nơi phía tây vách núi Phất Thủy, thuộc Cầm Xuyên.
Niên hiệu Càn Long năm thứ 7, ngày rằm tháng hai, bốn chúng đệ tử vùng Mậu sơn tưởng nhớ đạo hạnh cao vời của ngài, liền cung thỉnh linh cốt về xây dựng tháp thờ bên phải chùa A-dục Vương. Tháp cũ [ở Cầm Xuyên] được dùng làm nơi thờ y bát của ngài.
Đại sư sinh vào ngày mồng 8 tháng 8 năm thứ 24 niên hiệu Khang Hy, 49 tuổi đời, 25 tuổi đạo.
Tác phẩm để lại có 108 bài thơ Tịnh độ, Chú giải Tây phương phát nguyện văn, Tục Vãng sanh truyện, Đông Hải Nhược giải, các bài văn sám Xá-lợi, Niết-bàn… tất cả đều được lưu hành rộng rãi.
Ngày 9 tháng 9 năm Ất Sửu, niên hiệu Càn Long thứ 10, người đồng học là Tây Am Luật Nhiên ghi lại dưới mái hiên bên phải Tam Phong Tịch Chiếu Đường.
Lời phụ của người Việt dịch
Căn cứ theo nội dung của Tỉnh Am Pháp sư ngữ lục (省菴法師語錄) gồm hai quyển, thì Đại sư còn lưu lại được những trước tác sau:
Quyển Thượng
– Khuyến phát bồ đề tâm văn
– Niết-bàn hội phát nguyện văn
– Hồi hướng kệ (kèm bài tựa)
– Niệm Phật kệ
– Niệm Phật khai thị
– Thị thiền giả niệm Phật kệ
– Niệm Phật cảnh sách
– Thị Lữ cư sĩ kệ
– Cảnh thế kệ
– Thích-ca Như Lai xá-lợi bảo tháp tán
– A-di-đà Phật tượng tán
– Quán Âm Đại sĩ tượng tán
– Thị hiện Quán Âm tượng tán (kèm bài tựa)
– Dược Sơn Đại sư thư không đồ tán
– Huyết thư văn thù tượng tán
– Tịnh nghiệp đường minh
– Thốn hương trai minh
– Trai đường minh
– Đông minh
– Tây minh
– Khán kinh minh
– Dục thất minh
– Xí thất minh
– Ngoạ thất minh
– Xá-lợi sám tự
– Trùng kiến Niết-bàn hội tự
– Niết-bàn hội ước tự
– Niết-bàn hội kết đệ nhị tự
– Đảo Linh Man Bồ Tát văn
– Dữ Mao Tĩnh Viễn cư sĩ thư
– Ứng phó thuyết
– Nhiên chỉ vấn biện
– Niệm Phật trước ma biện
– Mai Phương Pháp sư vãng sinh truyện
– Thánh Nhãn Thượng nhân vãng sinh truyện
– Niệm Phật quy ước (kèm lời dẫn)
– Tịnh nghiệp đường quy ước (kèm lời dẫn)
Quyển Hạ
– Khuyến tu Tịnh độ thi (có lời tựa)
– Bát khổ thi
– Phát nguyện kệ
– Bất tịnh quán tụng (kèm lời tựa)
– Tứ niệm xứ tụng (kèm lời tựa)
– Chủng thụ thán
– Đề Lam Điền thúc họa Liên hoa Phật quốc đồ
– Xả thân kì vũ ca (kèm lời tựa)
– Tặng Đông A cư sĩ (nhị thủ)
– Tương phó chiết trung lưu biệt Sóc Phương cư sĩ
– Lộc thủy nang
– Lễ tháp kỷ sự (bát thủ – kèm lời tựa)
– Ngẫu thành tứ thủ
– Niệm Phật thuật hoài
– Từ thế kệ
Hầu hết các tác phẩm nêu trên là những bài thơ, kệ ngắn, có nhiều bài rất ngắn, chỉ bốn hoặc tám câu thơ… được viết ra với nội dung nhắc nhở, sách tấn sự tu tập. Riêng bài Từ thế kệ ở cuối quyển hạ chính là bài kệ Đại sư viết trước khi thị tịch, đã nói ở trên.
Các bài tụng Bất tịnh quán và Tứ niệm xứ trong quyển thượng đã được Đại sư Ấn Quang chọn đưa vào khắc in trong phần phụ đính của An Sĩ Toàn thư, nhân đó chúng tôi cũng đã chuyển dịch trọn vẹn sang Việt ngữ và xuất bản chung với bộ Toàn thư này.
Điểm qua các tiêu đề tác phẩm trên cũng đã thấy rõ được tinh thần “văn dĩ tải đạo” trong các trước tác của Đại sư. Mong rằng một ngày nào đó có đủ nhân duyên, chúng tôi sẽ chuyển dịch toàn bộ ngữ lục này sang tiếng Việt để giới thiệu cùng độc giả.
Phần 6: Bài văn cảnh sách của ngài Quy Sơn
Do nghiệp lực trói buộc mà có thân này, không khỏi bao điều khổ lụy. Thân thể từ cha mẹ sanh ra, vốn thật chỉ là giả hợp các duyên. Dù là nương nơi bốn đại mà tồn tại, nhưng bốn đại ấy chẳng lúc nào là không xung khắc.
Chuyện vô thường già chết không hề hẹn trước. Sớm còn tối mất, thoắt chốc đã sang đời khác; như sương như móc, thoạt có thoạt không; như cây ven bờ vực, như dây leo vách giếng, có chi bền chắc?
Niệm niệm nhanh chóng nối nhau, chỉ trong chớp mắt, trút hơi thở đã qua kiếp khác. Sao lại có thể yên lòng mà bỏ phí cuộc đời trôi qua vô ích?
Làm người xuất gia, chẳng thể dâng cho cha mẹ miếng ăn ngon ngọt, cho đến quyến thuộc cũng đều dứt bỏ. Không lo việc nước, cũng chẳng kế tục nghiệp nhà; xa lìa xóm giềng thân tộc, xuống tóc theo thầy học đạo. Vậy nên trong lòng phải biết chuyên cần sớm tối công phu, ngoài học lấy đức hiền hòa không tranh chấp; xa lánh chốn thế tục mà một lòng cầu giải thoát.
Lẽ nào vừa được thọ giới phẩm liền tự xưng là bậc tỳ-kheo, ăn hạt cơm của tín thí thập phương chẳng chịu xét cho cùng do đâu mà có, chỉ nói bừa rằng việc ấy là lẽ đương nhiên. Ăn xong dụm đầu trò chuyện huyên thuyên, cứ vậy chạy theo cái vui trong chốc lát, không biết rằng vui đó chính là nguyên nhân của khổ.
Lăn lóc bao đời theo thói tục, chưa từng nhìn lại chính mình. Thời gian năm tháng lần lữa luống qua, thọ nhận càng nhiều, lợi dưỡng càng lắm, chẳng lúc nào nghĩ đến việc dứt bỏ. Tích tụ ngày càng nhiều, chung quy cũng chỉ là nuôi giữ lấy xác thân phù phiếm.
Đấng Đạo sư đã có lời khuyên răn khuyến khích, tỳ-kheo phải tiến lên trên đường đạo, chớ nên buông thả thân mình; chuyện ăn mặc ngủ nghỉ đừng bao giờ hưởng thụ cho đầy đủ. Người ta vốn phần đông tham đắm vào những chuyện ấy, chỉ quanh quẩn mãi thoắt chốc đã hết đời. Vậy nên kẻ hậu học chưa hiểu sâu tông chỉ cần phải siêng năng cầu học với người đã biết. Sao lại toan nói rằng việc xuất gia quý cầu no cơm ấm áo?
Phật trước kia chế định giới luật, mở bày chỉ dạy người tăm tối; oai nghi phép tắc trong sạch như băng tuyết. Kẻ mới phát tâm nương theo đó mà ngăn chặn mọi điều sai phạm. Phép tắc tinh vi, dẹp bỏ hết những điều tồi tệ. Nơi truyền dạy giới luật chưa từng lạm được nương theo, pháp rốt ráo thượng thừa làm sao hiểu thấu? Thật đáng tiếc thay, bỏ phí một đời trôi qua vô ích, sau dù hối tiếc cũng không còn kịp nữa. Lời Phật dạy không chịu ghi lòng tạc dạ, thì đạo nhiệm mầu không thể do đâu mà tỏ ngộ.
Cho đến khi tuổi tác về già, dù xuất gia trải đã nhiều năm mà trong tâm thật chẳng được gì. Vì chẳng chịu gần gũi học người hiền đức, chỉ biết ngông nghênh cao ngạo.
Chưa thông giới luật, chẳng biết tự chế phục mình. To tiếng nặng lời khoác lác huyênh hoang, chẳng biết kính nhường kẻ trên người dưới, so ra khác gì ngoại đạo? Đến bữa ăn khua bát ồn ào, ăn vội vàng đứng dậy đi trước. Đi ở không tuân phép tắc, chẳng ra dáng vẻ bậc xuất gia; đứng ngồi hoảng loạn, náo động tâm người khác. Phép tắc ít nhiều chẳng giữ, oai nghi lớn nhỏ đều không, chẳng dựa vào đâu để răn đe kẻ dưới, mà người mới nhập đạo nhìn vào cũng chẳng thấy có gì để noi theo học.
Như có ai vừa chỉ ra chỗ sai sót, liền bảo rằng: Như ta đây mới thật bậc ẩn tu! Chưa nghe làm theo lời Phật dạy, chỉ một lòng ôm giữ tánh tình thô thiển. Chỗ thấy biết như vậy, chung quy cũng là vì khi mới nhập đạo biếng nhác chẳng tinh cần, tham đắm thế tục, lần lữa qua ngày. Thấm thoát hết đời thành ra buông lung thô lỗ. Thoắt chốc đã già nua lụm cụm, gặp việc đành bế tắc. Người mới học đến thưa hỏi chẳng có chi để chỉ bày. Như có gượng nói ra cũng chỉ là sai kinh lệch nghĩa. Vậy mà có bị khinh chê, lại trách rằng hậu sinh vô lễ, rồi nổi trận lôi đình to tiếng với người.
Một mai nằm trên giường bệnh, khổ não đau đớn bức bách không kể xiết. Bấy giờ mới sớm tối lo sợ, tâm tưởng hoang mang. Đường sắp tới u ám mê mờ chẳng biết về đâu! Trong lòng hối tiếc cũng không còn kịp nữa, như kẻ khát nước mới đi đào giếng, có ích lợi gì? Tự hận mình trước đã không sớm lo tu tập, để khi tuổi già chất chứa đầy tội lỗi. Cái chết gần kề trong thoáng chốc, hãi hùng khiếp sợ biết bao! Trút hơi thoát khỏi cuộc đời, như con chim bay xuyên qua dải lụa, nghiệp lực dắt dẫn thần thức trôi lăn. Như người nhiều nợ lắm chủ theo đòi, ai mạnh được trước; tạo nghiệp đã nhiều, phải tùy theo chỗ nặng nề nhất mà thọ thân gánh chịu. Con quỷ vô thường luôn chực cướp đi sinh mạng của mình, chẳng lúc nào ngưng. Đời người hạn cuộc chẳng thể kéo dài, thời gian trôi qua không hề chờ đợi. Ba cõi luân hồi chưa thoát được ra thì cứ phải như thế mà mãi mãi thọ thân lưu chuyển.
Lạ lùng thương cảm biết bao! Trong lòng thương xót thống thiết, há có thể ngậm miệng không nói? Nên muốn nhắc nhở cảnh tỉnh cho nhau. Đáng buồn là chúng ta sanh ra cuối thời tượng pháp, cách Phật quá xa, Chánh pháp chẳng mấy ai am hiểu. Người đời đa phần đều giải đãi. Vì vậy lược nói ra đây đôi chút thấy biết hẹp hòi để khuyên răn những người hậu học. Nếu chẳng từ bỏ sự kiêu căng cao ngạo, nết cũ thật khó chuyển đổi!
Người đã xuất gia, cất bước vượt lên cao xa; tâm tánh, cốt cách khác người thế tục. Tiếp nối mà làm hưng thịnh đạo pháp, nhiếp phục hết thảy những thói hư tật xấu. Lấy việc ấy mà báo đáp bốn ơn, bạt khổ cứu nguy khắp trong ba cõi. Nếu không được vậy, chỉ là kẻ lạm mang hình tướng xuất gia, lời nói việc làm phóng túng lơ đễnh, uổng nhận sự cúng dường của thập phương tín thí. Như người giậm chân tại chỗ, dù nhiều năm qua một tấc chẳng dời! Mơ màng thoắt chốc qua hết một đời, chẳng biết nương vào đâu làm chỗ dựa!
Huống chi, đường đường mang hình tướng của một vị tăng, dáng vẻ tốt đẹp, đều là quả báo có được nhờ căn lành gieo trồng từ thuở trước. Lẽ đâu lại khoanh tay ngồi yên để thời gian trôi qua không hối tiếc? Sự nghiệp nếu chẳng chuyên cần, dựa vào đâu mà mong thành đạo quả? Chẳng những một đời trôi qua vô ích, cho đến kiếp sau cũng chẳng được gì!
Quyết tâm rời bỏ mẹ cha, khoác áo nâu sòng là ý muốn vượt trên thế tục. Sớm tối khắc ghi việc ấy, lẽ đâu để luống ngày qua? Nguyện làm được bậc trụ cột trong Phật pháp, nêu gương hậu thế. Thường mong muốn như thế cũng chưa hẳn đã được ít nhiều như nguyện.
Mở miệng nói ra phải hợp kinh điển. Luận bàn phải dựa theo những gương sáng thuở xưa. Hình tướng oai nghi đĩnh đạc, tâm ý khí lực cao cả thanh thoát.
Đi xa phải có bạn hiền, thường giữ cho tai mắt được trong sạch. Trú ngụ phải chọn cùng người tốt, thường nghe những việc chưa nghe. Cho nên nói: “Sinh ta ra là cha mẹ, giúp ta thành người là bạn hữu.” Được gần người hiền như đi giữa đám hơi sương, tuy không ướt áo nhưng lúc nào cũng được ẩm mát. Gần kẻ ác thì nuôi lớn thêm điều ác trong chỗ thấy biết; sớm tối làm việc ác liền phải chịu lấy quả báo trước mắt. Sau khi chết rồi phải chịu chìm đắm. Thân người một khi mất đi, muôn kiếp khó lòng được lại.
Lời nói thẳng trái tai, sao không khắc ghi vào tâm khảm? Theo đó liền có thể lắng sạch tâm trí, nuôi dưỡng đức hạnh, lui về chỗ vắng vẻ không còn hình tích danh tánh, giữ lòng chuyên chú trong sạch mà dứt hết sự ồn ào nhiễu loạn.
Như muốn tham thiền học đạo, vượt thẳng qua những pháp môn phương tiện, tâm phải hợp được với tôn chỉ huyền diệu, cứu xét chi ly chỗ tinh yếu, quyết định chọn lấy chỗ sâu xa, hiểu thấu cội nguồn chân thật. Rộng đường học hỏi với những người đi trước, gần gũi bạn hiền.
Cách tu này rất khó đạt đến chỗ kỳ diệu, nên phải khẩn thiết dụng tâm tinh tế, mới có thể do trong ấy mà tức thời hiểu được chỗ cốt yếu nhất, liền nương theo đó mà dần dần ra khỏi trần tục.
Như vậy tức là phá sạch hết hai mươi lăm cảnh có trong ba cõi. Hết thảy các pháp trong ngoài đều rõ biết là không thật. Do tâm khởi hiện, tất cả đều là tên gọi không thật. Đừng để tâm bám víu nương đắm. Chỉ cần tình ý không nương đắm theo vật, thì vật làm sao ngăn ngại được người? Mặc cho muôn pháp chuyển xoay, không dứt bỏ cũng không nối tiếp.
Nghe biết âm thanh hình sắc, thảy đều là những chuyện bình thường; dù bên này hay bên kia, chỗ ứng dụng thảy đều đầy đủ.
Chỗ làm nếu được như thế, thật không uổng đã mặc áo xuất gia. Báo đáp được bốn ơn, bạt khổ cứu nguy khắp trong ba cõi. Như trong nhiều kiếp vẫn có thể không thối chí, thì quả Phật nhất định đạt tới. Đối với ba cõi không còn ràng buộc, chỉ như người khách đến đi, lúc hiện lúc ẩn đều có thể làm khuôn phép cho kẻ khác.
Tu theo phép học đạo tham thiền như vậy, quả là pháp môn huyền diệu hơn hết. Chỉ cần có đủ quyết tâm, pháp không sai dối.
Như với người ở mức bình thường, không thể nhất thời vượt thoát, thì nên hết sức chú tâm tìm tòi học hỏi giáo pháp. Thông thuộc kinh điển, nghiền ngẫm cứu xét nghĩa lý tinh tường, rồi truyền rộng ra khắp nơi, dẫn dắt người hậu học, báo đáp ơn đức Phật.
Thời gian trôi qua, chớ nên luống mất, phải nên lấy sự tu tập như trên mà làm chỗ dựa đời mình. Giữ lấy oai nghi, thành bậc pháp khí giữa chúng tăng.
Chẳng thấy như dây leo kia, nhờ dựa vào thân cây tùng mà lên được đến tầng cao chót vót. Hãy chọn nhân lành cao trổi mà ký thác đời mình, mới có thể rộng làm lợi ích. Phải hết lòng tu tập, giữ gìn trai giới, đừng khinh thường mà giảm bớt hoặc bỏ qua. Đời đời kiếp kiếp về sau nhờ đó mà được hưởng quả phước rất nhiệm mầu.
Không nên nhàn nhã để phí ngày qua, biếng nhác bỏ đi thời khắc. Thời gian quý giá biết bao, sao chẳng cầu vươn tới? Uổng nhận của thập phương tín thí, lại phụ cả bốn ơn. Phiền lụy chất chứa càng nhiều, bụi trần khuất lấp tâm trí, đường tới thành ra ngăn lấp, người người đều khinh chê.
Người xưa nói: “Đã là trượng phu, ai ai cũng có thể làm nên việc.” Không nên tự hạ thấp mình mà nhụt tâm, thối chí. Nếu không được như vậy, thật uổng công xuất gia, thoắt chốc qua hết một đời không chút ích lợi.
Thành khẩn cầu mong các vị đều bừng cao chí khí quyết liệt, mở rộng hoài bão khác người. Mỗi mỗi việc làm đều noi gương những bậc cao thượng, chẳng buông thả theo kẻ thấp hèn.
Chỉ một đời này quyết tu hành chứng đạo, tự mình lo liệu chẳng dựa vào ai. Ngăn dứt vọng niệm, cắt đứt muôn duyên, không còn chạy theo trần cảnh. Tâm không cảnh lặng, chỉ vì ngăn ngại đã lâu nên chẳng suốt thông.
Hãy đọc kỹ bài văn này, luôn luôn tỉnh giác gắng tu. Mạnh mẽ tự chủ lấy mình, đừng buông thả theo thói thường. Nghiệp quả dẫn dắt người đi thật khó lòng trốn tránh, như âm thanh thế nào tiếng vọng thế ấy, hình thể có ngay thì bóng soi mới thẳng. Nhân quả rõ ràng như thế, lẽ nào không lo sợ?
Vì vậy trong kinh nói rằng: “Dù việc làm đã trải qua trăm ngàn kiếp, nghiệp quả không thể mất. Khi nhân duyên đã hội đủ rồi, quả báo phải tự nhận lấy.” Vậy nên biết rằng, hình phạt trong ba cõi luôn bám theo mà giết hại người, phải nỗ lực chuyên cần tu tập, đừng bỏ phí ngày qua.
Bởi hiểu thấu được sự nguy hại của tội lỗi, nên mới khuyên nhau tu tập hành trì. Nguyện sao trong trăm ngàn kiếp, dù sinh ra ở đâu cũng được cùng nhau làm bạn đồng tu.
Có bài tụng để khuyên răn rằng:
Thân hư huyễn trong mộng,
Hình sắc giữa chốn không.
Việc đã qua không cùng,
Việc về sau ai biết?
Sanh đây, thác về kia,
Chìm nổi, lăn lóc khổ.
Chưa thoát ngoài ba cõi,
Sao có thể nghỉ yên?
Tham luyến chốn thế gian,
Năm uẩn duyên hợp thành.
Sanh ra mãi đến già,
Rốt không được gì cả!
Gốc rễ tự vô minh,
Từ đó phải mê lầm.
Ngày tháng luống trôi qua,
Thời khắc không lường được.
Một đời này uổng phí,
Qua đời khác chẳng thông.
Tiếp nối mãi mê lầm,
Đều do sáu tên giặc.
Lăn lóc giữa sáu đường,
Loanh quanh trong ba cõi.
Sớm cầu bậc minh sư,
Gần gũi người đức hạnh.
Thân tâm khéo chọn lựa,
Quét hết bao gai góc.
Đời nổi trôi phù phiếm,
Sao để duyên thúc bức?
Phải xét cùng pháp lý,
Quyết chứng ngộ đạo mầu.
Tâm cảnh đều mất sạch,
Không nhớ, không tưởng đến.
Sáu căn tùy tự nhiên,
Đi ở đều vắng lặng.
Vọng tâm không sanh khởi,
Muôn pháp tự dứt lìa.
Phần 7: Viết sau khi dịch
Bản dịch này tôi viết xong đã nhiều năm nay, từng đưa cho nhiều vị tôn túc xem qua, đều nói là rõ ràng, dễ hiểu. Tuy nhiên, bản thân tôi mỗi lần đọc lại vẫn thấy một khoảng cách nhất định giữa bản dịch và nguyên tác. Cho dù đã cố gắng hết sức mình, tôi vẫn không sao hài lòng được với việc đã làm.
Tuy nhiên, điều làm tôi cảm thấy phần nào được an ủi là, đây không phải trường hợp duy nhất đối với các bản văn hay bằng chữ Hán. Còn nhớ cách đây gần hai mươi năm, bài thơ Hoa cúc của thiền sư Huyền Quang cũng đã từng làm tôi suy nghĩ mãi, vì không sao dịch hết được ý thơ trong nguyên tác. Chỉ riêng một câu “Phần hương độc tọa tự vong ưu” (焚香獨坐自忘憂) đã là một thách thức gần như không thể vượt qua! Thế rồi, nhiều năm sau, được đọc các bản dịch của những bậc tiền bối lão thành, uyên bác… tôi mới vỡ lẽ ra là, ngay cả các vị cũng không xóa bỏ được khoảng cách giữa bản dịch và nguyên tác. Và tôi còn nhận ra một điều: Nguyên tác càng hay thì khoảng cách này dường như càng lớn!
Tính hàm súc của văn chương chữ Hán gần như không thể phủ nhận được, nhất là với những bản văn hay. Việc chuyển dịch rõ ràng là có những giới hạn nhất định rất khó lòng vượt qua. Vì thế, để thật sự có thể cảm nhận được cái hay của nguyên tác, quả thật không gì bằng đọc hiểu được trực tiếp từ chữ Hán. Theo lời cha tôi kể lại, những người xuất gia ngày trước buộc phải đọc hiểu được và học thuộc lòng bản văn này bằng chữ Hán. Đây cũng là một trong những lý do khiến cho ít người nghĩ đến việc dịch sang tiếng Việt.
Ngày nay có khác. Lớp trẻ bây giờ không mấy người đọc được chữ Hán. Vì thế, việc chuyển dịch sang tiếng Việt có lẽ là cách tốt nhất để giới thiệu bản văn hay này đến với nhiều người. Cho dù có những hạn chế nhất định như đã nói, nhưng tâm huyết của người xưa cũng có thể nhờ đó mà không đến nỗi phải mai một.
Tuy nhiên, để bù đắp phần nào cho những thiếu sót khi chuyển dịch, việc diễn giải thêm một vài ý chính có lẽ cũng là một việc nên làm.
Nhân quả và vô thường
Nhân quả là một trong những nguyên lý cơ bản quan trọng nhất trong Phật pháp. Khổ não đời này tất yếu là do nghiệp lực từ đời trước. Vì thế mà có thân là có khổ, bởi thân này vốn do nghiệp lực sinh ra, chịu sự chi phối, dắt dẫn của nghiệp lực. Nghiệp đã buộc nơi thân, vấn đề không phải là làm sao tránh né, mà là phải đối mặt và vượt qua như thế nào.
Soi rọi vào bản chất thật sự của thân này, mới hay rằng bốn đại vốn đều không thật. Có người cho rằng quan niệm về “bốn đại” của thời xa xưa nay không còn đúng nữa. Thật ra, về mặt nguyên lý thì vấn đề vẫn không có gì thay đổi cả. Tính giả hợp của bốn đại, hay tính giả hợp của các nguyên tử, phân tử, tế bào… vẫn là như nhau, có khác chăng chỉ là tên gọi cho phù hợp với sự hiểu biết về vật chất của mỗi giai đoạn. Còn tính triết lý hàm chứa trong quan niệm này quả thật không thay đổi, vẫn luôn đúng đắn. Nghĩ mà xem, rõ ràng là chúng ta không thể, và cũng sẽ không bao giờ có thể tìm được một “cái ta thật có” trong những yếu tố giả hợp đó, cho dù có gọi đó là “bốn đại”, hay “phân tử”, hay “tế bào”… gì gì đi nữa. Sự giả hợp của chúng để tạo thành xác thân vật chất này là một sự gá mượn hoàn toàn nơi các nhân duyên. Nhân duyên đầy đủ thì hội tụ, nhân duyên hết thì tan rã… Dù muốn hay không ta cũng chẳng thể nào làm chủ được sự tồn vong của xác thân này.
Trong rất nhiều kinh Phật, tính không thật của “thân tứ đại” này luôn được nhắc đến như một thực tế cần ghi nhớ. Tuy nhiên, cái nguyên lý “tứ đại giai không” vốn dĩ rất ít người thật sự cảm nhận được, mà cái “có thật” của thân này thì không ai là không biết. Cái gọi là “có thật” đó, chính là những khổ lụy mà mỗi người chúng ta đều phải gánh chịu ngay từ thuở lọt lòng. Những khổ lụy ấy, nhìn xa là do nơi nghiệp lực, mà nhìn gần thì chính là do bởi sự “xung khắc” thường xuyên của các yếu tố cấu thành thân này. Bởi vậy, có thân là có khổ! Điều này thật sâu sắc biết bao! Ở đây lời văn chỉ gợi nhắc chỗ cốt tủy để mở đầu cho những ý hướng khác, nếu đi sâu vào phân tích lý nhân duyên, nghiệp quả thì còn biết bao nhiêu điều để nói!
Tuy là cội nguồn của khổ lụy, nhưng thân này lại chẳng lấy gì làm bền chắc. Dù muốn dù không, chúng ta hầu như cũng hoàn toàn không thể đảm bảo được sự tồn tại của nó, dù là chỉ trong thoáng chốc. Bởi vậy, kinh Tứ thập nhị chương dạy rằng, mạng người còn mất chỉ trong hơi thở. Sớm còn, tối mất, mỏng manh “như sương như móc”, “như cây ven bờ vực, như dây leo vách giếng”… Quả là những hình ảnh so sánh rất rõ ràng minh bạch. Mạng người đã thế, có chi là bền chắc?
Trong thực tế quanh ta, chuyện sống chết cũng không ít trường hợp diễn ra hoàn toàn không báo trước. Hôm nay gặp nhau, ngày mai không còn nữa. Vừa mới chuyện trò vui vẻ cùng nhau, phút chốc đã nghe tin dữ… Những chuyện như thế, quả thật không lạ lùng gì đối với bất cứ ai. Tuy nhiên, điều lạ lùng nhất là rất ít người thường xuyên nghĩ đến, nhớ đến thực tế ấy! Nếu người ta luôn nhớ đến điều này, cuộc sống hẳn đã tốt đẹp hơn nhiều lắm, bởi chẳng mấy ai lại còn có hứng thú để lao vào những cuộc tranh chấp hơn thua, gây gổ cùng nhau khi biết rằng cuộc sống quý giá này vốn rất mong manh, ngắn ngủi. Tính chất vô thường hóa ra lại là một cái gì đó “rất thường” mà không mấy người chịu để tâm suy ngẫm.
Nêu lên lý nhân quả, sự giả hợp của các duyên và tính cách tạm bợ của đời sống, bài văn đã phác thảo được một tiền đề quan trọng cần thiết cho những ý tưởng sách tấn sẽ được trình bày nối tiếp theo sau.
Chí hướng xuất gia
Cuộc sống đã mong manh ngắn ngủi, sự nghiệp một đời biết dựa vào đâu để gọi là đại sự? Bởi vậy, người có đủ trí tuệ và ý chí không thể không chọn con đường xuất thế. Nếu không được vậy, thật là “bỏ phí cuộc đời trôi qua vô ích” vậy.
Nhưng đại nghiệp xuất thế không phải một sớm một chiều đã có thể làm nên. Huống chi có được xác thân này vốn là nhờ ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ cha như trời biển, lại thêm sự dạy dỗ, nâng đỡ của thầy cô, bạn hữu… cho đến sự bảo bọc, cậy nhờ nơi xóm giềng, xã hội… Đã vậy, nếu không biết nghĩ đến phần trách nhiệm của mình đối với tất cả, thì dẫu chuyện nhỏ cũng chưa thể gọi là thành tựu, huống hồ là đại sự!
Nhưng đây vốn là tâm niệm rất dễ mắc phải của người xuất gia! Một khi lập chí xuất trần, thường xem nhẹ hết thảy những gì thuộc về thế tục. Vấn đề thật ra không đúng là như vậy. Dù quả thật đã không còn có thể “dâng cho cha mẹ miếng ăn ngon ngọt”, cũng “không lo việc nước”, “chẳng kế tục nghiệp nhà”… nhưng những điều đó hoàn toàn không có nghĩa rằng người xuất gia là rũ bỏ mọi bổn phận, trách nhiệm làm người. Sự khác biệt ở đây là cần phải dốc chí “làm nên đại sự” như một phương tiện để báo đáp công ơn của những ai đã từng thương yêu, bảo bọc cho mình. Bởi vậy, người xuất gia phải canh cánh bên lòng trách nhiệm nặng nề là phải vượt lên trên mọi chuyện tầm thường thế tục mà một lòng cầu đạo giải thoát.
Những điều nên tránh
Tuy rằng tâm nguyện, ý chí của người xuất gia là to lớn khôn cùng, nhưng nếu không khéo nghiêm trì giới luật, vâng theo lời giáo huấn của Bổn sư thì thật rất dễ lầm đường lạc lối. Trong văn này, Tổ sư nêu lên những ý chung, mà khi xét lỗi riêng đời nay không ít người mắc phải.
Lỗi đầu tiên dễ mắc phải nhất là sự tự mãn, kiêu căng. Người xuất gia vừa thọ Đại giới xong, oai nghi hình tướng đầy đủ thì ai ai cũng đều cung kính, trân trọng, cho đến những bậc quyền thế của thế gian cũng quỳ lạy lễ bái. Nhiều người không biết rằng sự cung kính đó bước đầu vốn dĩ có được chỉ là nhờ nơi hình tướng tăng sĩ, còn oai nghi đức hạnh thật sự của mỗi người là việc không phải tự nhiên có được. Vì không phân biệt được chỗ khác biệt này, nên thay vì chuyên cần tu tập, tinh chuyên giới luật để xứng đáng với cương vị bậc xuất gia, lại sanh tâm kiêu mạn tự cho rằng mình đã có được oai đức hơn người. Nghĩ như thế nên xem việc thập phương tín thí cúng dường chu cấp vật thực cho mình chỉ là chuyện đương nhiên phải vậy! Tâm đã kiêu mạn như thế nên không thể theo con đường khổ hạnh tinh chuyên, chỉ biết sống buông thả theo vật dục, theo những tình cảm thế tục thông thường không khác, quên mất rằng những điều ấy thảy đều là nguyên nhân chuốc lấy khổ não về sau!
Nếu biết nhớ lại chí hướng lúc xuất gia, nhớ lại những trách nhiệm nặng nề khi bước chân vào con đường xuất thế, thì chẳng thể nào lơ là buông thả được. Phật dạy rằng, người xuất gia lấy đạo nghiệp thay cho sự nghiệp của thế tục, phải biết tự thân tiến mãi không ngừng trên đường tu tập. Bởi vậy luôn phải ghi nhớ trong lòng câu “tam thường bất túc”, “chuyện ăn mặc, ngủ nghỉ đừng bao giờ hưởng thụ đầy đủ”. Nếu chỉ biết mong cầu “no cơm ấm áo” thì thật là uổng phí cả một đời, cho dù có sớm kinh tối kệ thì rốt cùng cũng chẳng có được chút ích lợi gì.
Chỗ nương dựa trước tiên của người xuất gia nhất thiết phải là giới luật. Trước khi Phật nhập Niết-bàn cũng đã ân cần dặn dò hàng đệ tử về sau phải lấy giới luật làm thầy, xem đó như Phật còn tại thế. Thật đáng tiếc có những người tự cho mình là lợi căn thượng trí, chỉ muốn nghiên tầm những nghĩa lý sâu xa mà không chú trọng đến việc tinh chuyên giới luật. Đây là một sai lầm rất lớn mà bất cứ ai khi đã mắc vào đều khó lòng tăng tiến trên đường tu tập. Bởi vì giới luật vốn dĩ là cái nền móng chắc chắn nhất định phải có để thực hành bất cứ pháp môn nào.
Chỉ riêng một việc không nghiêm trì giới luật là gốc của muôn ngàn lỗi lầm sai trái khác. Tự thân chẳng giữ được phép tắc oai nghi, trí huệ cũng không do đâu mà sinh khởi; chẳng những đã không có chút lợi lạc cho riêng mình, lại còn gây cản trở việc tu tập của mọi người chung quanh. Một mai tuổi cao tác lớn, thành bậc lão thành trong tăng chúng nhưng lại chẳng có gì để cho kẻ hậu học noi theo. Có ai đến hỏi nghĩa lý sâu mầu trong kinh điển cũng chẳng biết lấy gì mà giảng giải. Hơn thế nữa, vì tâm kiêu mạn chưa được dứt trừ, nên không thể tự thấy biết lỗi mình, thường đem tâm sân hận mà đáp lại với người muốn giúp mình sửa lỗi. Những sai lầm này, tuy là đối với mỗi người đều có chỗ khác biệt tinh tế, nhưng tựu trung cũng không ngoài những điều mà Tổ sư đã nêu ra trong văn này.
Điều quan trọng được nhấn mạnh ở đây không phải là sự so sánh hơn thua cùng người khác, mà là tính chất khẩn thiết, nhanh chóng của cuộc sống vô thường ngắn ngủi này. Thoắt chốc đời sống đã qua đi, thọ mạng không còn, cái khổ già nua, bệnh hoạn lại có thể ập đến tưởng như trong chớp mắt. Một khi lìa bỏ kiếp này, vốn liếng một đời chẳng có gì để mang theo, liền chịu sự dắt dẫn của nghiệp lực mà trôi lăn vào ác đạo.
Những việc nên làm
Vì thế, một khi đã quyết chí xuất gia, không sợ thân mình nhiều lỗi, chỉ sợ nết cũ khó chừa. Dù có bao nhiêu thói hư tật xấu mà chịu một lòng nghiêm trì giới luật, học hỏi chuyên cần, thì chẳng lo gì ngày một tinh tấn hơn. Bởi Phật chế giới luật vốn dĩ là vì người có lỗi, không phải dành cho các bậc thánh tịnh hạnh. Chỉ cần một lòng tin tưởng giữ theo, cho dù người có nhiều tật xấu đến đâu rồi cũng dần dần sẽ được trở nên oai nghi thanh tịnh.
Người xuất gia phải xem việc cúng dường của thập phương tín thí như món nợ lớn. Một lòng cầu đạo giải thoát thì không lo gì nợ kia không trả hết; nhưng nếu lơ là giải đãi, quyết chẳng tránh đâu được có ngày phải trả lại đủ cho người từng hạt gạo, cọng rau đã từng thọ nhận.
Tự mình có đủ nhân duyên để đứng vào hàng tăng chúng vốn đã là một phước báu phải tích lũy từ nhiều đời nhiều kiếp, không phải ai cũng dễ dàng có được. Vì vậy mà người xuất gia phải ngày đêm ghi nhớ mục đích đã đề ra cho cả một đời mình, phải rèn luyện cho mình thành bậc pháp khí trụ cột trong đạo pháp. Có như vậy mới không uổng đi chí nguyện ban đầu.
Việc tu tập tuy là phải nương theo sự dẫn dắt của bổn sư, nhưng được gần gũi với những người bạn tốt cũng là điều lợi lạc vô cùng to lớn. Bởi vậy mà so sánh như người “đi giữa đám hơi sương, tuy không ướt áo nhưng lúc nào cũng được ẩm mát”. Với sự dẫn dắt của bậc minh sư, nếu được thêm những bạn đồng tu khéo biết cùng nhau sách tấn thì việc tiến tới trên đường đạo có thể nói là không khó lắm. Người tục nói: “Chọn bạn mà chơi”, cũng không ngoài ý này.
Người bạn hiền thường hay nói thẳng, vì muốn giúp điều tốt cho mình. Vì thế, phải biết tự răn mình, biết nhận nghe những lời can gián, phê phán từ người khác. Nếu chỉ muốn được nghe toàn những lời ngon ngọt êm tai, thì việc sa đọa chắc chắn không bao lâu sẽ đến mà thôi.
Thiền học và giáo học
Người xuất gia nếu có đủ quyết tâm và trí tuệ, có thể chọn theo con đường thẳng tắt của Thiền môn. Đây là con đường cực kỳ khó khăn, nhưng cũng là con đường có thể giúp người tu nhanh chóng thẳng đến bờ giải thoát, vì thế mà nói là “vượt thẳng qua những pháp môn phương tiện”.
Điều quan trọng cần nói ở đây là, người tu nhất thiết phải hết sức tỉnh táo trong việc tự biết lấy mình. Phải có đủ năng lực, trí tuệ và ý chí quyết tâm trong việc cầu đạo. Chuyên cần nỗ lực trong công phu hành trì, hiểu sâu được tông chỉ, ý thú của Thiền đạo thì mới có thể đi đúng đường mà đạt đến chỗ giải thoát. Bằng như tự cho mình là bậc thượng căn thượng trí nhưng thật ra lại không đủ sức để vượt thẳng đến cội nguồn, thì việc lầm đường lạc lối rất dễ xảy ra.
Thử hình dung như một người quyết chí muốn qua sông, tự lượng biết sức mình rồi mới lao xuống dòng nước để bơi thẳng qua mà chẳng cần nhờ cậy đến thuyền bè. Nếu quả là người trí lực đầy đủ, tất nhiên sẽ rút ngắn được thời gian mà điểm đến cũng không khác chi người đi thuyền. Tuy nhiên, nếu không lượng đúng sức mình thì rõ ràng là bờ kia chẳng bao giờ đến được.
Người tu thiền tự dựa vào sức mình, cầu đạo giải thoát bằng phương tiện thẳng tắt cũng giống như người bơi qua sông kia vậy.
Bằng như tự biết sức mình không thể bơi thẳng qua sông, thì tốt hơn nên nhờ đến thuyền bè, đến người đưa đò… Bằng cách này dù có chậm chạp hơn, nhưng nếu đã quyết tâm thì chắc chắn cũng sẽ có ngày đến được bờ bên kia.
Vì thế, việc tu thiền xưa nay vẫn được thừa nhận là pháp môn tối thượng, huyền diệu hơn hết, nhưng không phải ai cũng có đủ khả năng để nương theo.
Đối với những người không đủ trí lực để nương theo Thiền đạo, nên chọn lấy việc chuyên cần học hỏi, hành trì theo giáo pháp. Theo con đường này cần phải hiểu rõ tông chỉ, nắm vững nghĩa lý trong kinh giáo và theo đó mà rộng truyền giáo hóa cho người khác. Nhờ nương theo việc giáo hóa mà tự mình cũng được phần lợi ích tăng tiến. Như vậy gọi là “tự giác, giác tha”. Cũng lấy việc tự mình tu tập và giáo hóa người khác mà làm phương tiện báo đền ơn đức Phật.
Khuyến tu
Việc đại sự của người xuất gia, những gì nên làm, những gì nên tránh, đến đây đều đã nêu rõ. Nắm hiểu được như vậy rồi thì chỉ còn một việc là tự thân mỗi người phải cố gắng quyết chí tu tập hành trì. Ý chí đó phải được xác lập từ lúc xuất gia và không ngừng vun bồi, củng cố qua năm tháng. Có như thế mới mong thành tựu được ý nguyện ban đầu. Bằng không được vậy, thời gian nhanh chóng trôi qua thì hết một đời cũng không thể hé mở được cánh cửa giải thoát.
Như dây leo nương thân cây cao mà lên được tầng cao chót vót, người xuất gia phải biết vững niềm tin nơi Tam bảo, ký thác cả đời mình nương theo Chánh pháp, nhờ đó mới có thể được phần lợi ích cho mình cũng như rộng làm lợi ích cho bao nhiêu người khác. Nếu không gấp rút lo việc tu tập, chẳng những một đời này mất phần lợi lạc mà nhiều kiếp về sau cũng phải chìm đắm trôi lăn trong khổ não.
Được sinh làm người, chỉ cần có quyết tâm thì đạo giải thoát dù khó khăn cũng không phải là không thực hiện được. Nếu người khác đã có thể đạt đến, thì mình cũng nên lập chí tựu thành. Không nên tự hạ thấp mình mà nhụt tâm, thối chí.
Kết ý
Tổ sư viết bài văn này, lời lẽ khẩn thiết, chân thành, nêu việc lỗi để răn dạy, nói điều hay để khuyến khích. Bởi vậy đọc qua có thể cảm nhận được ngay tấm lòng từ bi vô lượng của người, rộng vì tất cả đồ chúng và hàng hậu học chúng ta mà khuyên dạy. Dù thời gian năm tháng nối tiếp trôi qua, mà giờ đây đọc lại văn này vẫn thấy trong lòng đầy cảm xúc. Nếu không phải nguyện lực của bậc Bồ Tát độ sinh, hẳn không thể viết ra bài văn kiệt xuất này được.
Tiếc rằng những kẻ hậu học đời nay, nhiều người quên mất chí hướng xuất trần. Lắm khi mang hình tướng của một vị tăng mà chỗ học, chỗ hành không khác chi người thế tục. Một khi đọc đến văn này, chẳng lấy làm xấu hổ lắm sao? Mong rằng nhờ sức từ bi nhiếp độ của Tổ sư, hết thảy những ai đã lầm đường lạc lối, khi xem đến bản văn này đều sẽ tự mình thức tỉnh mà phấn chấn sửa mình, chuyên cần tu tập, nhanh chóng vượt lên bến bờ giải thoát, chỗ lợi ích cho mình cho người đều nhờ đó mà được thành tựu viên mãn.
Phần 8: Hành trạng Tổ Quy Sơn Linh Hựu
Tổ sư sinh năm 771, vốn người họ Triệu, quê ở Trường Khê, Phúc Châu. Ngài xuất gia năm 15 tuổi, theo thầy là Pháp Thường ở chùa Kiến Thiện. Năm 20 tuổi thọ giới Cụ túc tại chùa Long Hưng thuộc Hàng Châu, pháp hiệu là Linh Hựu.
Từ khi xuất gia, ngài chuyên cần học tập kinh điển của cả Đại thừa và Tiểu thừa. Năm 23 tuổi đến Giang Tây tham bái Tổ Bách Trượng. Tổ Bách Trượng vừa gặp ngài đã biết ngay là bậc pháp khí, liền thu nhận làm đệ tử, cho được sớm tối kề cận để tham học.
Một hôm, ngài đang đứng hầu Tổ Bách Trượng. Tổ hỏi: “Ai đó?” Ngài đáp: “Con là Linh Hựu.” Tổ nói: “Ông khơi trong bếp xem có lửa hay không?” Ngài đến khơi trong bếp thấy đã tắt hết, bèn nói là không có lửa. Tổ sư thân tới bên bếp lửa, bới sâu trong tro lấy ra được chút than còn đỏ, đưa lên mà hỏi rằng: “Ông nói không có lửa, vậy đây là cái gì?” Ngài nhân lúc đó bừng tỉnh ngộ, lễ tạ thầy trình chỗ sở kiến.
Tổ Bách Trượng nói: “Đây chỉ là chỗ rẽ tạm thời trên đường đi. Trong kinh nói: Muốn hiểu nghĩa Phật tánh phải xem nơi thời tiết nhân duyên. Một khi thời tiết đến, như mê chợt ngộ, như quên chợt nhớ, mới biết ra đó là vật của mình, không phải do bên ngoài mà có được. Vì thế, Tổ sư nói rằng: Ngộ rồi cũng như chưa ngộ, không có tâm cũng không có pháp, chính là không các tâm hư vọng, tâm phàm, tâm thánh… Từ xưa nay tâm pháp vốn tự đầy đủ, nay ông đã được rồi, phải khéo tự giữ gìn.”
Sau, ngài được Tổ Bách Trượng cho giữ chức Điển tòa.
° ° °
Bấy giờ có Tư Mã Đầu Đà là một vị thiền sư du phương. Một hôm từ Hồ Nam đến chỗ Tổ Bách Trượng, nói rằng: “Tôi đến xứ Hồ Nam tìm được một ngọn núi tên là Đại Quy, là nơi có thể dung chứa đến 1.500 người, chính là chỗ dành cho bậc thiện tri thức cư ngụ.”
Tổ Bách Trượng hỏi: “Lão tăng này đến đó ở được chăng?”
Tư Mã Đầu Đà đáp: “Không phải chỗ Hòa thượng ở được.”
Lại hỏi: “Vì sao vậy?”
Tư Mã Đầu Đà nói: “Hòa thượng như xương, núi kia như thịt, nếu có đến ở thì đồ chúng không tới số ngàn.”
Tổ Bách Trượng lại hỏi: “Như trong đồ chúng của ta, có ai được chăng?”
Tư Mã Đầu Đà đáp: “Phải đợi xem qua mới biết.”
Tổ Bách Trượng liền bảo thị giả gọi vị Thủ tòa là thiền sư Hoa Lâm đến, hỏi Tư Mã Đầu Đà rằng: “Người này được chăng?”
Tư Mã Đầu Đà quan sát, bảo Hoa Lâm đằng hắng một tiếng và bước đi mấy bước, rồi nói: “Không thể được.”
Tổ Bách Trượng lại cho gọi ngài – tổ Quy Sơn – đến. Tư Mã Đầu Đà vừa nhìn thấy liền nói: “Vị này chính là chủ nhân của Quy Sơn rồi.”
Đêm ấy, Tổ Bách Trượng gọi ngài vào trong phòng, dặn dò rằng: “Ta tùy duyên giảng pháp nơi đây, còn chỗ thắng cảnh Quy Sơn là nơi ông nên đến ở để tiếp nối tông môn của ta mà rộng độ cho những người hậu học.”
Thiền sư Hoa Lâm nghe biết chuyện, thưa hỏi: “Con nay là người đứng đầu trong chúng, sao vị Điển tòa lại được làm trụ trì?”
Tổ Bách Trượng nói: “Nếu ai có thể đối trước chúng nói ra một câu xuất cách sẽ cho làm trụ trì.”
Rồi chỉ cái tịnh bình mà hỏi: “Không được gọi là tịnh bình, ông gọi là gì?”
Hoa Lâm nói: “Không thể gọi là cây lủng.”
Tổ Bách Trượng lại hỏi ngài. Ngài đá cái tịnh bình ngã nhào rồi đi ra. Tổ Bách Trượng cười nói: “Ông đệ nhất tòa thua mất hòn núi này rồi.” Liền sai ngài đến Quy Sơn.
° ° °
Quy Sơn là ngọn núi cao chót vót, không có bóng người, vượn khỉ tụ tập thành bầy. Ngài nhặt những trái sung, trái dẻ mà làm thức ăn. Được chừng năm bảy năm qua, chẳng có ai lui tới. Ngài tự nghĩ: “Ta đến đây làm trụ trì là muốn làm lợi ích cho người. Nay đường xá đến đây chẳng được, làm sao có người tụ họp?” Liền rời khỏi am thất mà tìm xuống núi. Ra đến cửa núi, thấy những rắn độc, hổ báo, lang sói chặn đầy ngang đường. Ngài nói: “Này các giống thú, đừng chặn đường đi của ta. Như ta có duyên với núi này, các ngươi hãy đi nơi khác. Như ta không có duyên với núi này, các ngươi không cần đi, ta theo đường mà đến cho các ngươi ăn thịt vậy.”
Nói xong, tất cả các giống thú dữ ấy liền tứ tản đi mất hết. Ngài lại quay về am thất. Chưa được một năm sau, thượng tọa Lại An cùng với một số tăng chúng từ chỗ ngài Bách Trượng tìm đến mà trợ giúp với ngài. Lại An nói: “Tôi xin vì Hòa thượng mà làm chức Điển tòa, đợi tăng chúng được 500 vị mới thôi.”
Từ đó về sau, dân cư dưới núi mới dần dần biết đến, lập nên cảnh chùa. Liên soái Lý Cảnh Nhượng có tâu lên vua xin ban hiệu chùa là Đồng Khánh. Tướng quốc Bùi Hưu cũng thường đến thưa hỏi những chỗ sâu xa huyền diệu. Người trong thiên hạ đến học thiền ngày càng đông đúc. Trong những vị đắc pháp có thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch là bậc cao trổi, nên người đời tôn xưng tông này là tông Quy Ngưỡng.
Ngài rộng truyền giáo pháp được hơn 40 năm. Vào niên hiệu Đại Trung thứ 7 đời nhà Đường, ngày mồng 9 tháng Giêng, ngài tắm gội sạch sẽ rồi ngồi an nhiên vui vẻ mà thị tịch, thọ 83 tuổi, trải 64 tuổi hạ. Vua ban thụy hiệu là Đại Viên Thiền sư, dựng tháp thờ tại Quy Sơn, đặt tên tháp là Thanh Tịnh. Vì thế, pháp hiệu của ngài là Linh Hựu nhưng người đời thường tôn kính gọi là Quy Sơn Đại Viên Thiền sư.
Bài văn cảnh sách do ngài làm ra được truyền tụng khắp chốn thiền môn, trải qua nhiều đời sau vẫn còn được trân trọng.
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net
Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật.
Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có.
https://lienphathoi.org/danh-muc_author_doc-sach_Nguy%E1%BB%85n%20Minh%20Ti%E1%BA%BFn.html